Câu chuyện lịch sử trong ngày tiếp quản Hà Nội (10-10-1954)

Wednesday, October 10, 2018

Câu chuyện lịch sử trong ngày tiếp quản Hà Nội (10-10-1954)

(TL tổng hợp)

ÔNG NGUYỄN TÀI - NGƯỜI CHỈ HUY CÔNG AN HÀ NỘI TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP CHO BIẾT: “MỘT TRONG NHỮNG NHIỆM VỤ QUAN TRỌNG CỦA CÔNG AN NỘI THÀNH TRONG NHỮNG NGÀY TIẾP QUẢN LÀ BẢO VỆ TUYỆT ĐỐI AN TOÀN CHO ĐOÀN LÀM PHIM XÔ VIẾT CỦA ROMAN KARMEN”.

Trong những dịp chào mừng kỷ niệm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954), trên sóng truyền hình, mỗi chúng ta không khỏi xúc động được xem những hình ảnh tư liệu (màu) ghi lại thời khắc lịch sử của Thủ đô trong ngày tiếp quản cách ngày nay nhiều thập kỷ, chắc nhiều người tự hỏi: “Không biết đoàn làm phim của nước tư bản nào đã quay được những thước phim quí giá như thế?". Tác giả của những thước phim vô cùng quí báu về Hà Nội ấy là chính là đạo diễn Xô viết kiệt xuất Roman Karmen. Việc đưa đoàn làm phim của Roman Karmen vào nội thành Hà Nội và bảo vệ an toàn cho đoàn trong những ngày quân ta thực hiện việc tiếp quản đã được Đảng ủy Tiếp quản & Thành ủy Hà Nội giao cho lực lượng Công an chịu trách nhiệm chính, mà người chỉ huy lực lượng công an hoạt động ở vùng tạm chiếm khi đó là đồng chí Nguyễn Tài.

1 - NHIỆM VỤ ĐỘT XUẤT, ĐẶC BIỆT CỦA CÔNG AN HÀ NỘI TRONG NHỮNG NGÀY TIẾP QUẢN

Nhiều năm trước, trong một lần cung cấp tài liệu lịch sử, đồng chí Nguyễn Tài (tức Tư Trọng - Anh hùng lực lượng VTND) cho tôi biết:
-“Công việc của lực lượng Công an Hà Nội trong những ngày trước tiếp quản vô cùng bận rộn. Nào là phải lên danh sách các địa điểm, vị trí mà hai bên Pháp - Việt cần thống nhất bàn giao. Nắm chính xác số tù binh quân sự, tù binh chính trị của ta mà địch còn giam giữ để buộc chúng trao trả, chống âm mưu thủ tiêu của chúng. Nắm chắc cơ sở bí mật của ta ở các trọng điểm kinh tế như: nhà máy Điện, nhà máy Nước, ga Xe lửa, Sở Xe điện, một số bệnh viện lớn . . . để chống âm mưu phá hoại của địch. . . Đặc biệt là phải nắm cho bằng được âm mưu cài gián điệp, chôn giấu vũ khí, điện đài của địch để thực hiện kế hoạch hậu chiến. Công việc nhiều như thế, mà trên địa bàn thành phố khi đó lực lượng công an hoạt động bí mật của ta chỉ có chừng 200 đồng chí. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trên giao, anh, chị em công an phải dựa vào màng lưới cơ sở rất nhiều, chúng tôi rất biết ơn bao nhiêu quần chúng cơ sở bí mật trong các tầng lớp nhân dân Hà Nội & trong cả giới công chức, bác sĩ, sĩ quan, cảnh sát phía địch mà ta xây dựng thành cơ sở, đã giúp đỡ, chở che, hy sinh cho lực lượng công an hoàn thành nhiệm vụ.
Về chuyện đảm bảo an toàn cho đoàn làm phim Xô viết của đạo diễn Roman Karmen thì tôi (Nguyễn Tài) nhận trách nhiệm trực tiếp từ lãnh đạo Thành ủy. Trong bối cảnh Hà Nội lúc đó, khi quân Pháp chưa rút hẳn, hàng chục đảng phái phản động chưa bị tan rã hoàn toàn, việc chúng bất chợt nổ mìn, nổ súng vào bộ đội ta hay đoàn làm phim là điều có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Để đảm bảo an toàn cho đoàn làm phim, chúng tôi phải phối hợp với bên quân đội (vì bên quân đội có xe ô tô đưa đoàn làm phim đi lại), vạch ra lộ trình thời gian & địa điểm làm việc cụ thể của đoàn trong nội thành. Căn cứ vào lộ trình đó, bên công an sẽ rà soát các tuyến đường đi, chống âm mưu phá hoại, ám sát của địch. Tại các địa điểm mà đoàn làm phim dừng lại tác nghiệp, lực lượng công an bí mật sẽ bảo vệ tiếp cận & đứng lẫn vào khối quần chúng để sẵn sàng can thiệp nếu có sự cố xảy ra. Quá trình bảo vệ đoàn làm phim của Roman Karmen được lực lượng công an nội thành lên kế hoạch và rà soát trước cả tuần lễ. Căng nhất là trong hai ngày mùng 9 & 10 tháng 10, nhưng cũng rất mừng là nhiệm vụ trên giao chúng tôi đã thực hiện trọn vẹn. Đó cũng là một trong những thành tích đáng ghi nhận của lực lượng Công an Hà Nội trong những ngày tiếp quản”.
Ông Nguyễn Tài (Tư Trọng - Anh hùng LLVTND)



2 - ĐẠO DIỄN XÔ VIẾT TÀI BA & NHIỆM VỤ VẺ VANG TẠI VIỆT NAM

Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân & dân Việt Nam đang đi vào hồi kết với những chiến thắng oanh liệt, đạo diễn Roman Karmen cùng hai đồng sự Xôviết là Evghenhi Mukhin và Vladimia Echurin được Nhà nước Liên Xô giao nhiệm vụ sang Việt Nam làm phim tài liệu vào những ngày cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ. Được sự giúp đỡ tận tình của Chính phủ & các đồng nghiệp điện ảnh Việt Nam, ông Karmen đã miệt mài lao động, hoàn thành xuất sắc bộ phim màu "Việt Nam" (1954) ghi lại những giây phút hào hùng nhất của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những năm tháng hòa bình đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam.
Tháng 10/1954, từ chiến khu Việt Bắc, Roman Karmen về Hà Nội để chứng kiến giờ phút lịch sử bộ đội ta tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Đoàn làm phim Xô viết đã được Đảng ủy tiếp quản giao cho quân đội đưa đạo diễn Roman Karmen vào nội thành Hà Nội bằng 3 chiếc xe Commăngca, xuất phát từ làng Vòng lúc 5h30 sáng ngày 9/10, tiến vào trung tâm thành phố. Đường phố Hà Nội vắng vẻ, chỉ có những người lính Pháp chuẩn bị cho cuộc ra đi vĩnh viễn... Đoàn làm phim Xô viết đã quay được nhiều thước phim tư liệu quí giá. Đến 16h30 cùng ngày, khi những chiếc xe cuối cùng của quân Pháp rút qua cầu Long Biên, Karmen cùng đồng sự của ông đã quay được nhiều thước phim quí về hình ảnh nhân dân Hà Nội đổ ra đường với nét mặt hân hoan & đường phố ngập tràn cờ hoa. Nhớ mãi những kỷ niệm đẹp đối với cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân Việt Nam, sau này Roman Karmen viết: "Bảy tháng ở Việt Nam, thời gian trôi nhanh đến mức không kịp nhận ra những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh đã qua, những ngày hòa bình đầu tiên đã đến. Trong tôi không thể nào phai mờ được những kỷ niệm về các cuộc gặp gỡ với nhân dân Việt Nam, những trẻ em, bộ đội, du kích, những bộ trưởng, thầy giáo, công nhân, nông dân… Lần đầu tiên trong đời, tôi đến đất nước này và suốt đời tôi còn yêu mến nó".
Bộ đội vào tiếp quản Hà Nội trong ngày 10-10-1954.
Nhân dân Hà Nội đón chờ đoàn quân chiến thắng trong ngày 10-10-1954.
Đạo diễn Xô Viết Roman Karmen



3 - ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ VỀ ROMAN KARMEN

Roman Lazarovic Karmen sinh ngày 16/11/1906 tại Odessa, một thành phố cảng biển thuộc Ukraine. Bố ông là nhà văn Lazaoximovich Karmen. Do hoạt động cách mạng, cụ bị bọn Bạch vệ bắt giam và bị chết trong tù. Mồ côi cha từ năm 14 tuổi, cậu bé Karmen và mẹ phải trải qua những năm tháng nặng nề, cực nhọc. Cậu vừa đi học, vừa bán báo, làm thợ phụ ngoài cảng giúp mẹ kiếm sống. Lúc rảnh rỗi, cậu mày mò tập chụp ảnh với niềm say mê lạ thường.
Năm 16 tuổi, Karmen trở thành phóng viên nhiếp ảnh cho Tạp chí "Ngọn lửa nhỏ" ở Moskva. Công việc cho phép cậu tiếp xúc với nhiều nhân vật và sự kiện tiêu biểu đồng thời giúp cậu hiểu sâu hơn về nhiếp ảnh. Karmen mơ ước được cầm máy quay phim, quay những hình ảnh động để phản ánh hiện thực đầy đủ hơn. Năm 1928, cậu nộp hồ sơ và thi đỗ vào Trường Điện ảnh Quốc gia Moskva. Tốt nghiệp năm 1932, cậu về công tác Xưởng phim Tài liệu Trung ương.
Ngay trong các phim đầu tay, Karmen đã bộc lộ một tư duy sáng tạo độc đáo với lối dựng phim rành mạch, giàu tính tạo hình, giải pháp kịch bản mới mẻ, ống kính luôn hướng sự chú ý vào con người, dù đó là cá nhân hay tập thể. Ở người đạo diễn tẻ này đã thấy nổi bật đức tính kiên trì, bền bỉ, lòng khát khao công việc. Karmen được đánh giá là nhà làm phim tài liệu năng động và đầy triển vọng.
Hoạt động nghệ thuật của Karmen được tôi rèn & trưởng thành trên nhiều điểm nóng, nơi diễn ra các sự kiện lịch sử ở nhiều đất nước khác nhau. Năm 1934 - 1935, Karmen đến với những chiến sĩ của khởi nghĩa Quảng Châu và Nam Kinh (Trung Quốc). Năm 1936, Karmen có mặt ở Tây Ban Nha, quay những thước phim nóng bỏng về cuộc nội chiến ở đất nước này. Năm 1938, Karmen làm phim về cuộc kháng Nhật của nhân dân Trung Quốc (phim "Trung Hoa trong chiến đấu"). Trở về quê hương, ông lại say sưa với đề tài xây dựng đất nước Xôviết. Khi phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô tháng 6/1941, Karmen thuộc số ít những nhà quay phim đầu tiên sát cánh cùng Hồng quân trên các chiến tuyến. Ông quay được nhiều hình ảnh chân thực về cuộc chiến đấu bảo vệ Leningrad, Moskva… Những cảnh phim ấy đã trở thành chất liệu cực kỳ qúy cho bộ phim "Thất bại của quân Đức ở ngoại ô Moskva" (1942 - đạo diễn L.Varlamova và I.Copalin). Phim đoạt giải Oscar và Giải thưởng Quốc gia năm 1943.
Roman Karmen là người đã đi suốt từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô, có mặt tại hầu hết các mặt trận quan trọng nhất, từ Moskva đến Berlin, hang ổ của chủ nghĩa phát xít. Ông đã quay được những thước phim vô giá như: bắt sống Thống chế Đức Paolut, cảnh thảm khốc ở trại tập trung Auschwitz (Ba Lan), hình ảnh những người lính Xôviết chiếm tòa nhà Quốc hội Đức ở Berlin, xét xử bọn trùm Quốc xã… Năm 1946, Karmen đạo diễn bộ phim "Tòa án của các dân tộc", một tác phẩm chính luận đặc sắc về tòa án quốc tế Nuremberrg xét xử tội phạm chiến tranh. Với giá trị tư liệu lịch sử to lớn, với tính nghệ thuật cao, đặc biệt là sự lý giải thuyết phục nguyên nhân của chiến tranh phát xít, bộ phim đã được tặng giải thưởng Quốc gia, được giới sử học điện ảnh Xôviết xếp vào hàng những tác phẩm kinh điển về đề tài chống phát xít.
Trong những năm 50, 60 của thế kỷ trước, Roman Karmen lần lượt có mặt ở Việt Nam, Myanmar, Indonesia, Ấn Độ, Cuba… Nhiều sự kiện lịch sử, nhiều nhân vật quan trọng của thời đại (như Hồ Chí Minh, Fidel Castro, Che Guevara, Salvador Allende...) được Karmen quay vào phim nhựa và xây dựng thành các tác phẩm điện ảnh tài liệu có giá trị như: "Việt Nam" (1954), "Buổi sáng ở Ấn Độ" (1959), "Hòn đảo rực cháy", "Ngọn đèn màu xanh" (1961), "Người khách của hòn đảo Tự do" (1963), "Chile - Thời gian âu lo và tranh đấu" (1973)…

- Roman Karmen (1906 - 1978) là một trong những nhà làm phim tài liệu vĩ đại nhất thế kỷ XX. Cuộc đời nghệ thuật của ông rất đa dạng trong các vai trò: Đạo diễn, biên kịch, quay phim, nhà báo, nhà sư phạm điện ảnh. Những thước phim tư liệu mà Karmen để lại cho hậu thế thật là vô giá.







(TL tổng hợp)






Nguồn: FB Dũng Đinh - 10 Tháng 10, 2017




Tuyệt phẩm Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ

Tuesday, September 11, 2018

Mặc khải xuân thì qua tuyệt phẩm Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ

Bùi Đức Hào

Trong lịch sử nghệ thuật truyền thống Việt Nam, hội họa có vị trí khiêm tốn, mờ nhạt đến độ gần như vắng mặt. May thay, một trong những hệ quả tích cực nhất mà cuộc gặp gỡ văn hóa Đông-Tây khởi từ thế kỷ XVI[1]Xem http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/1217/Khai_quat_ve_lich_su_truyen_giao_va_phat_trien_dao_Cong_giao_o_Viet_Nam (Xem bên dưới) đã đem lại là sự ra đời của Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương tại Hà Nội vào năm 1924.[2]Theo nghị định ngày 27/10/1924 trên Công báo, với khóa học đầu tiên khai giảng vào tháng 11 năm 1925 (xem: http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tintuc&action=detail&id=3468) (Xem bên dưới)

Trong các thế hệ họa sĩ xuất thân từ lò đào tạo chính quy này, Tô Ngọc Vân đứng vào hàng những nhân vật nổi tiếng nhất. Danh tánh ông từ lâu đã vượt ngoài biên giới đất nước và đặc biệt còn hưởng cái vinh dự hoàn vũ cực hiếm là được lấy đặt tên cho miệng một hỏa sơn phát hiện năm 2008 trên Sao Thủy[3]https://en.m.wikipedia.org/wiki/To_Ngoc_Van_(crater), https://planetarynames.wr.usgs.gov/Feature/14589?__fsk=-1175379531 (Xem bên dưới).

Song, nếu nhìn kỹ lại, tác phẩm của ông cũng như bối cảnh hình thành và hoạt động của Trường, cùng điều kiện làm việc cụ thể của người làm nghệ thuật thời ấy, ít khi được đề cập một cách quy củ, nghiêm túc và xứng đáng với tầm vóc tài năng nhà danh họa : bài viết này, vì thế, mong được góp phần khơi gợi – gióng lên một “tiếng chuông” nào đó, dù nhỏ nhoi – để ước ao sẽ có ngày nhận biết được thêm những chia sẻ, phân tích và tư liệu bổ sung vào nguồn hãy còn quá ít ỏi hiện giờ của nó.

Tô Ngọc Vân vẽ không nhiều, và phần lớn những tác phẩm hoàn chỉnh nhất của ông lại bị “thất thoát”, lưu lạc ra xứ người. Các thông tin gần đây[4] (Xem bên dưới) cho thấy ngày nay trong nước chỉ còn lại những bản chép của bức tranh huyền thoại Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ, mà ngay hình chụp đang lưu hành (theo bản chép hay bản gốc[5] (Xem bên dưới)?) và thậm chí cả năm sinh của tác giả (1906 hay 1908?) cũng còn chưa được xác minh thỏa đáng.

Sẽ không có chỗ cho dửng dưng vô cảm trước một sự thực phũ phàng như vậy. Những đánh giá trách nhiệm và biện pháp sửa chữa rồi phải đến.

Nhưng trước mắt là một niềm tiếc nuối vô biên, mỗi khi ta cố lắng lòng để tĩnh tâm chiêm ngưỡng, thả hồn theo chiều kích kỳ vĩ và vẻ đẹp lạ lùng của kiệt tác này…


Xuân sắc và nhịp điệu: đôi cánh nâng lên tầm hiện đại


Bức tranh không giống bất cứ một họa phẩm nào khác, cho dù mang cùng cái chủ đề rất ư cổ điển là hoa với giai nhân[6] (Xem bên dưới). Không phối cảnh (perspective) hay khung cảnh nào hết, nó không như những tranh khác thường gặp, kể cả của chính tác giả. Hình trong tranh gần như trải phẳng trên hai chiều khung vải, cộng thêm với chủ ý « cắt hình » sát nút của người vẽ, tạo nên hiệu ứng làm tập trung nhãn giới vào đối tượng : bỗng chốc nó như được khuếch đại, chiếm hết cả không gian.

Toàn bộ bức tranh là một cái nhìn cận cảnh, xuất phát từ một chủ thể đang ở kề sát vì bị lôi theo cơn mê đắm thôi miên, như một Đinh Hùng trong Đường Vào Tình Sử :

“Có những buổi ta nhìn em kinh ngạc
Hồn tan dần trong cặp mắt lưu ly” …

Thiếu nữ bên hoa huệ (1943) [sưu tầm trên mạng (sttm)]


Nhưng cặp mắt thiếu nữ không nhắm một ai. Nàng chìm vào cõi mộng, tay vén nghiêng mái tóc về phía trái – phía của trái tim – để lộ dưới vành tai e ấp một vùng ót cổ thiên nga ngà ngọc. Như hoa quý khoe hương. Như một nỗi rạo rực đợi chờ. Như Mùa Xuân dâng hiến.

Chỗ nõn nà ửng sáng ấy là điểm nhấn độc đáo, là “cái đinh” hình tượng của tác phẩm: trước và sau họ Tô, trong hội họa Việt Nam, không có ai biểu đạt xuân sắc ý nhị và nồng nàn đến như thế.

Thiếu nữ trong tranh có thân hình cân đối và gợi cảm như một pho tượng Hy Lạp, bó sát trong bộ áo dài tha thướt, biểu tượng sáng giá của những gì mà một cách tân bứt phá có thể đem lại trong kỷ nguyên mới. Mơ màng theo một ý nghĩ riêng tư nào đó, nàng hơi khum người lại như muốn giữ kín niềm tâm sự. Rất có thể nàng cũng mang cùng tâm trạng với người đàn bà đáng yêu trong điệp khúc bất hủ của Phan Vũ-Phú Quang:

“Ai đó chờ ai, tóc xõa vai mềm”

(Em Ơi Hà Nội Phố)

Toàn bức tranh, thoạt đầu, toát ra một sự tĩnh lặng. Một chút se lạnh loang từ màu sắc chủ đạo. Có người nói đến một nỗi buồn man mác.

Rồi từ bờ vai thon mềm ấy, mỗi cánh tay nhịp nhàng vẽ lên một vòng bán nguyệt đa nghĩa: hai bàn tay đối ứng âm dương, tay dưới vừa đủ chạm đóa hoa chủ với đài hoa căng tròn, nằm ở trung tâm bức tranh – ngang tầm bộ ngực – và cũng là môi giới duy nhất giữa giai nhân với ngoại cảnh. Hoa thường là chỉ phái đẹp, nhưng ở đây, đối ngẫu với kiều nữ, nó trở thành một biểu tượng mang dương tính. Chỉ riêng điều này cũng có khả năng gợi mở cho một diễn dịch dựa vào vô thức, trong chiều hướng phân tâm học theo thuyết lý của Freud[7] (Xem bên dưới)

La Danse (1909), HENRI MATISSE (1869-1954) (sttm)


Đối với khách thưởng ngoạn giàu tưởng tượng, đóa hoa chủ có thể là mô-típ đầu tiên để đan kết thành một vòng hoa vĩ đại, một vũ điệu vòng tròn xoay theo chiều mấy ngón tay mủm mỉm định hướng: ý tưởng hoàn toàn nằm trong khả thể, bởi những đường cong đầy nghệ cảm trong tranh Tô Ngọc Vân làm liên tưởng đến bức bích họa trứ danh La Danse của Matisse. Và âm nhạc trong tranh cũng khởi lên từ đó.

Sự gần gũi giữa hai thiên tài còn lặp lại nữa, khi ta đối chiếu dáng dấp Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ với điệu bộ nhân vật trong một tác phẩm nổi tiếng khác, loạt hình Nu bleu, cũng của nhà danh họa này. Phải chăng cả hai, trong quá trình chiêm nghiệm nghệ thuật cố đại, đều đã cùng bị mê hoặc bởi nữ thần tình yêu, đặc biệt qua pho tượng “Aphrodite ngồi”[8] (Xem bên dưới)diễm lệ?
HENRI MATISSE, Nu bleu II (1952) (sttm)


Không chỉ có thế. Chàng trai trẻ Tây học tài hoa ấy, thuộc tầng lớp thanh niên ưu tú Hà thành những năm đầu thế kỷ XX, làm sao không biết đến bài thơ rực màu trần thế của một Arthur Rimbaud (1854-1891) thần tình, L'étoile a pleuré rose... : ai dám bắt bẻ chuyện không chừng nó đã gợi hứng cho họa phẩm ra đời ? Nhất là khi – từ vành tai, vai cổ đến bờ lưng, nét ngực – toàn thân người đẹp-nữ thần trong thơ như ngân lên một tiết tấu huyễn hoặc, làm xốn xang cả biển rộng, sao trời :

L'étoile a pleuré rose au cœur de tes oreilles,
L'infini roulé blanc de ta nuque à tes reins
La mer a perlé rousse à tes mammes vermeilles
Et l'Homme saigné noir à ton flanc souverain.

(Bản dịch theo gợi ý của Đăng Khoa[9] (Xem bên dưới):

Sao trời khóc, lệ hồng tai mộng ảo
Vô biên lăn trắng cả ót lưng thân
Biển đọng giọt đỏ au đôi bồng đảo
Bên hông trần, ta chết lặng chôn chân)

Vâng, Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ là hiện thân của cái đẹp phổ quát cho nên – gần đây hơn – trong thi ca chúng ta, Chu Trầm Nguyên Minh (1943-2014) cũng đã khắc họa theo cùng đường nét :

Cổ em cao, tay mười ngón thiên thần
Tóc em xanh, trùng dương sóng lượn…

(Lời Tình Buồn)

Vai hờ, cổ cao, ngần ấy nét nữ tính đã đủ để quyến rũ chết người, không riêng gì trường hợp Rimbaud. Tô Ngọc Vân, nói cho cùng, cũng chỉ tuân theo sứ mạng nghệ sĩ: ghi lại những vết thần tiên tại thế. Trong một chừng mực nào đó, Tô Tử[10] (Xem bên dưới) đã tiếp nối công trình đầy tính thuyết phục của một Gerard Ter Borch chẳng hạn, ở thế kỷ XVII, qua bức vẽ nhìn lưng Nữ nhạc sĩ trung-hồ-cầm lộng lẫy[11] (Xem bên dưới). Và sau chàng, ít nhất cũng đã có một Gerhard Richter làm tái hiện vùng tóc dấu xinh xắn qua hình ảnh phía sau Betty (1988), một trong những tranh đánh dấu sự trở về của lối vẽ tượng hình trong nghệ thuật đương đại.[12] (Xem bên dưới)
La violoncelliste, Gerard Ter Borch (1617-1681) (sttm)


Điều đáng nói là người họa sĩ tốt nghiệp Mỹ Thuật Đông Dương khóa II này của chúng ta đã làm hiển lộ, một cách tinh tế và hài hòa, cái nóng hổi hiện đại trên nền một âm hao truyền thống yên ắng dịu dàng, thể hiện qua màu áo trinh nguyên đi đôi với chùm hoa trắng.

Những xuyến xao nhục cảm, đối với chàng, vốn nằm trong thể chất con người và tùy lúc lung linh trên khuôn mặt nhân loại, mà nghệ thuật là tấm gương soi. Đã hơn một lần, Tô Ngọc Vân ngợi ca sự lên ngôi của giác cảm (sensualité) dưới ma lực diệu kỳ của bạn đồng môn Nguyễn Gia Trí, một trong những bậc phù thủy hội họa nước ta, trong thao tác vẽ tranh sơn mài của anh ta[13] (Xem bên dưới):
“Trên những màu hồng nhợt biến hoá, những sắc nâu ngon thiệt là ngon, những vỏ trứng như đổi cả thể chất thành quí vật, vài nét bạc, vài nét vàng sáng rọi, rung lên, rít lên như tiếng kêu sung sướng của xác thịt khi vào cực lạc. Chàng nghệ sĩ ấy yêu tấm sơn như ta có thể yêu một người đàn bà. Lúc âu yếm bằng những nét vuốt ve mềm mại, lúc dữ dội bằng năm bảy nét quệt mạnh đập tung, cào cấu"...

cũng như trong hiệu quả nghệ thuật tuyệt vời đạt được:

“Trong những hình sắc ấy như ẩn hiện một chút gì huyền ảo, đắm say, nồng nàn còn run rẩy trong bóng tối hoà với máu, một sức sống còn bế tắc, một linh hồn kiên quyết, đam mê, đang quằn quại vì muốn thoát nhanh ra ngoài ánh sáng..."

Tương tự như thế, khi bàn về một cuộc triển lãm nhiếp ảnh[14] (Xem bên dưới), Tô Tử cũng đã không ngại đi sâu vào từng chi tiết, từng dấu hiệu ý nghĩa nhất :

“Người ta thấy nhà mỹ thuật thận trọng, tằn tiện từng chút bợn sáng, hay ánh sáng lõa lồ, từng màng bóng hay đặc đen phủ lên phải chỗ, không quá tay, để ta cảm thấy điệu nhịp nhàng cân đối trong tấm ảnh. Cái chấm sáng trên môi của hình thiếu-nữ ngực lộ trần, nở nang và sám dịu, đã gợi ý sắc dục, một cách điều độ và có duyên. Nét mặt hơi tươi như sắp cười chìm trong nửa sáng nửa tối làm phảng phất một bầu không khí đầy yêu…"

Một ngôn ngữ hiếm thấy trong văn chương Việt, nhất là vào thời ấy. Thế mới «vỡ lẽ»: nhẩm lại bài tứ tuyệt của Rimbaud trên kia, ta mới thấy rõ ràng bây giờ là nó không thể nào xa lạ với vũ trụ Tô Ngọc Vân…

Có người dùng «toán học» để giải thích vì sao bức tranh Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ được yêu thích, bằng «quy luật» bố cục theo đường xoắn ốc vàng trong hội họa[15] (Xem bên dưới). Nhưng phải chăng, đó chỉ là một thứ trò chơi chữ nghĩa, tuy có lý thú và thông minh thật, vẫn không cắt nghĩa được gì? Mà lại ngàn dặm cách xa một chân lý hiển nhiên hơn: nghệ thuật không bao giờ ở chung với chủ nghĩa tất định (déterminisme), bất luận dưới dạng thức mô hình nào, mà luôn luôn mang máu thịt kẻ đã hoài thai, và chỉ lên tiếng với người đồng cảm.

Nghệ thuật lúc nào cũng có gốc gác. Nó nằm trong phả hệ (généalogie) của xã hội, cuộc đời, trong mối tương quan giữa con người và ngoại giới. Mặc khải về hương sắc Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ, vì vậy, cũng cùng lúc khiến ta ngộ ra vẻ sung mãn xuân thì của thời đại đã sản sinh ra nó.

Những nét thanh tân và thành tích rực rỡ buổi đầu của hội họa Việt

Những kẻ đồng cảm nghệ thuật, nói như quan niệm ta vừa nhắc trên, thì Tô Ngọc Vân không thiếu: đó là một hạnh phúc. Nhưng hơn thế nữa, chàng còn có biết bao người đồng hành ngoại hạng, kể cả thầy dạy. Đó là một cơ may lịch sử.

Để tạo người đồng cảm, họa sĩ đã đầu tư khá nhiều vào việc nâng cao trình độ thẩm mỹ quần chúng. Có lẽ Tô Tử là một trong những nghệ sĩ Việt Nam đầu tiên quan tâm đến ngành phê bình và đã mạnh dạn nhóm lên ngọn lửa khai sáng bằng nghệ thuật giữa bóng đêm nô lệ: giáo dục thẩm mỹ là một khâu không phù phiếm trong toàn bộ cuộc cách mạng dân trí.

Trước hết, còn ai đủ tư cách hơn Tô Ngọc Vân để chỉ ra một sự thật phật lòng về ngành vẽ truyền thống dân tộc? Họ Tô nói thẳng:

«Ngày xưa nước ta có hội-họa không? Những tranh bảo là của các cụ để lại, chúng ta ít được xem quá. Một vài nhà còn giữ một vài bức truyền-thần, một vài tấm tranh hoa điểu, hay sơn thủy. Trừ những bức truyền thần rất hiếm, đại để những tranh đó tả phong cảnh Tầu, nhân vật Tầu, không một giấu vết gì giang sơn nước Nam cả, chứ đừng nói đến tính cách đặc biệt Việt-Nam nữa. Một sản phẩm giá trị ấy chỉ đủ cho ta tin là đã phỏng theo những họa phẩm mỹ-thuật Tầu. Phỏng theo một cách nô lệ chứ không phải là chịu ảnh hưởng […] Nếu các cụ khi xưa để ý đến hội-họa! Làm gì chả dành lại cho họ một gia sản họa phẩm quý giá, làm gì ngày nay, họ, người Việt-nam, phải băn khoăn đi tìm một văn bản Việt-nam trong mỹ-thuật! …»[16] (Xem bên dưới)

Một văn bản Việt-nam trong mỹ-thuật: cụm từ đầy chất học thuật này tóm lược cái dự án táo bạo và có lẽ đẹp nhất mà thế hệ thanh niên yêu nghệ thuật thời đó đã dám đề ra và làm được.

Nó là thành quả của một sự «tâm đầu ý hợp» tuyệt vời, giữa hai nhân vật lịch sử là Nam Sơn Nguyễn văn Thọ và Victor Tardieu. Người sau thường được thiên hạ – có thể do đầu óc bất công, xu nịnh lúc đầu, rồi sau đó thì thiếu thông tin – xua nhau xưng tụng là nhà (thay vì chính xác chỉ là đồng) sáng lập Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương trong khi, trên thực tế, ý tưởng và quyết tâm muốn mở Trường là của người trước.
Những chứng từ quý giá và phong phú – phải nói là kho tàng mới đúng – của Ngô Kim Khôi[17] (Xem bên dưới) cùng Đinh Trọng Hiếu[18] (Xem bên dưới), bằng tiếng Việt lẫn tiếng Pháp trên mạng, đã góp phần làm sáng tỏ sự kiện quan trọng này. Song, ngay cả trong bài giới thiệu một cuộc triển lãm liên quan gần đây nhất tại Paris, vẫn còn sót lại nguyên si cái sai lầm đáng tiếc ấy trên « giấy trắng mực đen » của các… chuyên gia[19] (Xem bên dưới), không phân biệt vai trò hiệu trưởng (directeur) với nhà sáng lập (fondateur)!

Nam Sơn không phải chỉ đáng khâm phục do chí lớn và công lao với Trường – và do đó với dân tộc –, mà còn là một họa sĩ danh tiếng được nhìn nhận tài năng qua những sự kiện như: bức Trên bờ hữu ngạn sông Hồng… (1928) được Bộ Mỹ Thuật Pháp mua, ông đã nhận Bằng khen thưởng ở Triển lãm quốc tế nghệ thuật thuộc địa tại La Mã năm 1931, bức Chân dung Mẹ tôi (1930) đoạt huy chương bạc ở Salon des Artistes Français năm 1932, v.v...

Họa sĩ Công Văn Trung (khóa đầu tiên của Trường) đã tuyên bố năm 2003: “Không có thầy Nam Sơn thì không có trường Mỹ thuật Đông Dương”[20] (Xem bên dưới)
Victor Tardieu, tượng đồng (1935)
của Georges Khánh (sinh năm 1906, tôt nghiệp khóa đầu tiên) (sttm)



Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ (1890-1973)(sttm)


Trong một bài báo tựa đề Les Premiers Pas de la Peinture Vietnamienne Moderne, in lần đầu trong Xuân Thu Nhã Tập năm 1942[21] (Xem bên dưới),Tô Ngọc Vân mô tả – với nhiều chi tiết dí dỏm thú vị – không khí hăng say và hoàn cảnh ra đời của nền hội họa mới từ « cái nôi thiêng » của mỹ thuật Việt ấy. Nó lớn lên như Phù Đổng với nhiều lớp anh tài ở độ tinh hoa phát tiết, như một phép lạ dị thường.

Phép lạ ư? Hình như vừa có lại vừa không. Có, vì làm sao cắt nghĩa cuộc hạnh ngộ hi hữu giữa nhiều nhân tài giàu trí tuệ lẫn tâm huyết trên mảnh đất thuộc địa với nhãn quan nhân bản, phi-thực dân ? Không, vì nó là kết quả của « mồ hôi nước mắt », của tầm nhìn, của phương pháp luận (méthodologie), của bao nỗ lực trút ra, đâu phải lúc nào cũng êm đềm, lãng mạn.

May thay, Nam Sơn không một mình, Tardieu không riêng lẽ: chân kiềng thứ ba của chiếc đỉnh kỳ diệu «đầu não» đã hình thành đúng lúc, qua sự xuất hiện kịp thời của Joseph Inguimberty, người thầy nhân từ dường như đã có lần vẽ cho Tô Ngọc Vân một bức chân dung[22] (Xem bên dưới). Inguimberty – ngoài công lao xây dựng môn sơn mài hiện đại trong quá trình sư phạm – đã thổi thêm cho hoa thơm của nền hội họa non trẻ đó làn gió mát đến từ những cách tiếp cận mới, mà điển hình là phương pháp đi dã ngoại vẽ giữa thiên nhiên[23] (Xem bên dưới).

Chân dung Tô Ngọc Vân (1942), được cho là vẽ bởi Joseph Inguimberty [?] (1896-1971) {sttm}


Rồi hoa thơm quả ngọt thu hoạch ngay từ những vụ đầu mùa của Trường Mỹ Thuật cứ phát triển, làm danh tiếng họa sĩ Việt Nam bay khắp thế giới, qua nhiều cuộc triển lãm khác nhau: Paris đã đành, mà còn tới cả những nơi không thuộc quỹ đạo Pháp như Rome (1932), Cologne (1933), Milan (1934), nước Bỉ (1935-1937), San Francisco (1937), Nhật (1940)…[24] (Xem bên dưới)! Nhiều họa sĩ kỳ tài, chẳng hạn như Lê Văn Đệ, thủ khoa khóa đầu tiên của Trường, tiếc thay, ngày nay đã dần dà bị chìm trong quên lãng. Trong một bài viết không ở « kênh chính thức » nên không chắc được nhiều người biết đến, Nguyễn Thanh[25] (Xem bên dưới) kể lại thành tích xuất sắc của người sinh viên gốc Bến Tre ấy sau khi được học bổng du học:
«Chỉ một năm vừa đặt chân tới “kinh đô nghệ thuật” Paris, Lê Văn Đệ đã có tác phẩm chiếm giải nhì trong cuộc thi mỹ thuật do Hội Nghệ sĩ Quốc gia Pháp tổ chức ngày 1/05/1932 […] Theo Đông Dương tuần báo, đã có hơn 40 tờ báo Pháp đưa tin và bình luận về các tác phẩm của Lê Văn Đệ […] Họa phẩm “Trong gia đình” tác giả vẽ năm 1934 được triển lãm tại Milan […] được Bộ trưởng Thương mại Pháp Lamoureux mua về, đem trưng bày ở Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg tại Paris. Một thành công lớn cho tác giả đồng thời cũng là niềm tự hào cho nền mỹ thuật Việt Nam lúc bấy giờ, ngay đến như họa sĩ nổi danh Nhật Foujita cùng thời cũng chưa có được vinh dự ấy. Lê Văn Đệ chắc chắn cảm thấy hạnh phúc khi nhận biết mình là họa sĩ Á Đông đầu tiên có tác phẩm được trưng bày tại nơi vô cùng trang trọng…»
Thế là, cứ như …đương nhiên:
«Lê Văn Đệ trở thành người Việt Nam thứ nhất được kết nạp vào Hội Nghệ sĩ Pháp […] chàng sinh viên tài hoa đất Nam bộ tiếp tục nhận học bổng tu nghiệp thêm về hội họa tại Roma (Ý)».
Nguyễn Thanh còn cho thêm nhiều chi tiết khác, trích từ một quyển sách xuất bản năm 1939[26] (Xem bên dưới), tuy có hơi dài đối với khuôn khổ trang báo ở đây nhưng là hết sức đáng đọc, để biết và tự hào, như sau:
«Năm 1936, Lê Văn Đệ được vào đền Vatican xếp đặt các gian phòng Đông Pháp và luôn cả các nước Á châu gồm có Tiểu Á, Thiên Trước, Mã Lai, Xiêm La, Nam Dương quần đảo, Trung Hoa, Nhật Bản đến Úc Châu trong cuộc Đấu Xảo báo chí toàn cầu mở ra năm ấy. Lê Văn Đệ chỉ huy kiến trúc, điêu khắc, trang sức, hội họa, gia cụ. Dưới quyền họa sĩ da vàng có 1 nhà kiến trúc, 1 nhà điêu khắc, 3 họa sĩ, 1 kỹ sư, 5 chuyên viên trang trí... Tất cả đều là người da trắng! …Cuộc Đấu Xảo này có trên 30 nước tham dự và có tặng thưởng của thành Rome (Ý). Nước Pháp cũng cử qua kiến trúc sư lừng danh Hilt và họa sĩ nổi tiếng Bouleau. Nhưng chỉ một mình Lê Văn Đệ vinh hạnh được lãnh công việc trong tòa thánh trước bao nhiêu tài nhân nghệ thuật khác. Khi thực hiện xong công việc, bức bích họa của Lê Văn Đệ chiếm giải nhất, được giới mỹ thuật Ý hết lời ngợi khen. Cũng trong năm này, họa sĩ có sáng tác thêm 2 bức bích họa hoành tráng mang nội dung tôn giáo khác được lưu trữ tại viện Bảo tàng Vatican…»

Ít ngoạn mục hơn, nhưng không kém phần đáng trân trọng, là sự đón nhận thuận lợi mà giới nghệ thuật phương Tây đã dành cho tranh các họa sĩ ta mỗi lần được đem đi giới thiệu.Nếu Vũ Cao Đàm đã được ca ngợi dưới ngòi bút của Jeannine Auboyer[27] (Xem bên dưới) năm 1949, trước khi bà trở thành giám đốc viện bảo tàng Guimet, thì ngay từ năm 1933 Lê Phổ[28] (Xem bên dưới) , Nguyễn Phan Chánh và Tô Ngọc Vân đều là những tên tuổi được báo chí nhắc tới nhiều với những lời khen tặng nồng nhiệt[29] (Xem bên dưới).

*

Theo chân những bậc đàn anh như Lê Huy Miến[30] (Xem bên dưới), Nam Sơn, Tô Ngọc Vân và những đồng môn đã mở ra những chương tân kỳ, tráng lệ, cho hội họa Việt Nam. Cái đẹp đó đã thừa hưởng cái đẹp của những nhân cách lớn như Victor Tardieu và Joseph Inguimberty đã dũng cảm và khôn khéo làm những điều hữu ích cho nghệ thuật nước ta, bất chấp ý đồ khai thác của chính quyền thuộc địa.

Ta không có những triết gia như Michel Foucault (1926-1984) đã dành đến 13 trang sách để «đọc tới bến» trên bức tranh xưa Les Ménines của Vélasquez (1599-1660)[31] (Xem bên dưới) những gì làm say sưa thán phục cả thế giới: trí thức ta khiêm tốn, dè dặt với nghệ thuật hơn nhiều. Thế nhưng, từ những nét xuân thì trên Thiếu nữ bên hoa huệ đến bao sự kiện trong «gia phả» tiền nhân còn bị chôn kín, thậm chí bị lờ đi như trường hợp đáng «ngậm ngùi»[25] (Xem bên dưới) của một Lê Văn Đệ – mà phía sau không chắc là đã không có bàn tay ý thức hệ –, con đường còn rộng thênh thang cho những tâm hồn yêu nghệ thuật, để thử làm cuộc «khai quật chân lý» tương tự như Foucault đã làm, trong một hành trình «khảo cổ» văn hóa Việt giữa mùa Xuân phơi phới này.


Bùi Đức Hào


Chú thích

[1] Xem http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/1217/Khai_quat_ve_lich_su_truyen_giao_va_phat_trien_dao_Cong_giao_o_Viet_Nam

[2] Theo nghị định ngày 27/10/1924 trên Công báo, với khóa học đầu tiên khai giảng vào tháng 11 năm 1925 (xem: http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tintuc&action=detail&id=3468)

[3] https://en.m.wikipedia.org/wiki/To_Ngoc_Van_(crater); https://planetarynames.wr.usgs.gov/Feature/14589?__fsk=-1175379531

[4] 70 năm ra đời kiệt tác "Thiếu nữ bên hoa huệ": Trẻ mãi một nàng tố nữ (26/12/2013), http://vnca.cand.com.vn/Tu-lieu-van-hoa/70-nam-ra-doi-kiet-tac-Thieu-nu-ben-hoa-hue-Tre-mai-mot-nang-to-nu-331505/; Chuyện chưa kể về Tô Ngọc Vân và bức vẽ cuối cùng (14/06/2009), https://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/chuyen-chua-ke-ve-to-ngoc-van-va-buc-ve-cuoi-cung-n20090614045135605.htm; https://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/san-khau-my-thuat/so-phan-buc-tranh-thieu-nu-ben-hoa-hue-gio-ra-sao-1873229.html (2/4/2002); http://vietnamarts.vn/news/Tin-Tuc-Su-Kien-/17/Hoa-si-To-Ngoc-Van-%7C-1908---1954.html;

[5] Một bản « phục chế » mà tác giả cho là « tối ưu » hiện nay có thể được xem ở: http://www.tranh-dep.com/y-tuong/ban-phuc-che-thieu-nu-ben-hoa-hue.html

[6] Ví dụ: Thiếu nữ bên hoa sen (1940) của Lương Xuân Nhị, và Thiếu nữ với hoa sen (1944) của Tô Ngọc Vân

[7] Mời xem trong https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/gia-tri-nhuc-cam

[8] http://tarotsanciens.canalblog.com/archives/2015/05/30/26192721.html

[9] Người viết chân thành cảm tạ hai thân hữu Đăng Khoa và Lê Miên Khương về những trao đổi lý thú và những gợi ý xác đáng trong việc « chuyển ngữ » bài thơ tiêu biểu này. Xem thêm một phân tích đầy đủ về nó ở: http://abardel.free.fr/petite_anthologie/l_etoile_commentaire.htm

[10] Tô Ngọc Vân còn ký tên qua các bút danh Tô Tử, Ái Mỹ, TNV

[11] Gerard Ter Borch trong bức Joueurs de cartes cũng để lộ bờ vai tuyệt vời của nhân vật: http://enigm-art.blogspot.fr/2011/02/personnages-de-dos-dans-la-peinture.html Edgar Degas (1834-1917) cũng rất thích nét đẹp này, thường được ông lột tả, đặc biệt qua bức Le Tub, trình bày ở cuộc triển lãm Hội họa Ấn tượng lần thứ tám vào năm 1886. Nói về mối quan tâm của họa sĩ Watteau (1684-1721) đối với phía ót phụ nữ, Nicole Avril trong tác phẩm Le Roman du visage (Plon, 2000), đã viết như sau:
«Toute la sensualité, chez Watteau, se condense sur la nuque des femmes. Là, point de maquillage et point de masque. C'est l'endroit le plus nu. A peine une mèche échappée du chignon ou une perle de sueur. La gracilité appelle le baiser. Watteau ne s'intéresse qu'aux femmes qui s'éloignent. Elles le renvoient à sa solitude, ne lui laissant que le souvenir de leur nuque».

[12] Mời xem trong https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/cai-dep-thach-thuc-2

[13] Trích từ hai bài viết của Tô Ngọc Vân đăng trên Ngày Nay số 146 năm 1939 (tr.9), và Thanh Nghị số 77 năm 1944.

[14] Liên lạc hội-họa với nhiếp ảnh nhân cuộc triển lãm ảnh mỹ-thuật của ông Tranh, An và Nghi, tạp chí Thanh Nghị số 15, 6/1942, đang lại ở http://soi.today/?p=2648

[15] TỈ LỆ VÀNG VÀ ĐƯỜNG XOẮN ỐC VÀNG TRONG HỘI HỌA (14/03/2011), Phùng Hồng Kổn, https://phungkon1.wordpress.com/2011/03/14/t%E1%BB%89-l%E1%BB%87-vang-va-d%C6%B0%E1%BB%9Dng-xo%E1%BA%AFn-%E1%BB%91c-vang-trong-h%E1%BB%99i-h%E1%BB%8Da/

[16] Tranh cổ Việt Nam, tranh Tết, Tô Ngọc Vân, tạp chí Thanh Nghị số 9, 2/1942, tr. 4-5), đăng lại ở: http://soi.today/?p=1718

[17] Trường cao-đẳng mỹ-thuật đông-dương (1925-1945) (l’école des beaux-arts de l’indochine), Ngô Kim Khôi, http://damau.org/archives/6284

[18] https://www.maguytran-pinterville.com/arts/nouveau-inédit-nam-son-co-fondateur-esbai/

[19] Thư mục Triển lãm Du fleuve Rouge au Mékong (20/9/2012- 27/1/2013), Musée Cernuschi, Paris.

[20] Trích từ bài của Anh Chi ở http://phannguyenartist.blogspot.fr/2014/07/nam-son.html -> cần lưu ý ở trang này có lỗi viết sai tên Nguyễn Văn Thọ (thành Nguyễn Vạn Thọ).

[21] Les Premiers Pas de la Peinture Vietnamienne Moderne, Tô Ngọc Vân : nguyên văn tiếng Pháp in lần đầu trong Xuân Thu Nhã Tập (1942) đăng lại trên mạng ở http://hoamaiparis.com/A_VanModernPaintFR.htm

[22] Theo nguồn https://www.pinterest.fr/pin/536702480575738253/ ; tuy nhiên, trên vấn đề này, người viết xin chân thành cảm tạ nhà nghiên cứu mỹ thuật Ngô Kim Khôi đã cho biết ông hoàn toàn đặt nghi vấn về tính đích thực của bức tranh này: xin được cảnh báo cùng quý bạn đọc.

[23] Theo Thư Mục cuộc Triển lãm tranhJoseph Inguimberty tại Musée Regards de Provence (6- 12/11/2017), https://www.artcotedazur.fr/actualite,109/exposition,110/poesie-de-joseph-inguimberty-a-decouvrir-des-le-6-mai,11228.html

[24] Nguồn: https://hoasivietnam.wordpress.com/truong-my-thuat-dong-duong/

[25] Lê Văn Đệ nghệ sĩ hội họa bậc thầy, Nguyễn Thanh, http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=22569

[26] Một nhà họa sĩ ta: Lê Văn Đệ, Nguyễn Văn Hanh (Sài Gòn, 1939)

[27] Trong «Vũ Cao Đàm», France Illustration, Le Monde illustré, số 190 (đặc biệt về Đông Dương) ngày 4/6/1949

[28] Bởi Albert Maybon trong Une nouvelle exposition de peintures annamites, Les Arts, 1933

[29] Báo La République, số ra ngày 6/3/1933

[30] Họa sĩ lê huy-miến (1873-1943): cuộc đời và tác phẩm(08.07.2009)Ngô Kim Khôi, http://damau.org/archives/7257

[31] Les Mots et les Choses une archéologie des sciences humaines, Michel Foucault, coll. Tel, nxb Gallimard (1966), tr.19 - 31
Nguồn: Tuyệt phẩm Thiếu Nữ Bên Hoa Huệ - Bùi Đức Hào, 10/04/2018, Dien Dan Forum.


Mời xem tại Blog Danh họa Tô Ngọc Vân

Ba thiếu nữ mặc áo dài và ba con chim (1940) - Tô Ngọc Vân

Saturday, September 8, 2018

Ba thiếu nữ mặc áo dài và ba con chim -

Tô Ngọc Vân (1940)


Tên tác phẩm: Ba thiếu nữ mặc áo dài và ba con chim.
Chất liệu: Tranh lụa dán trên một tờ giấy và lót bằng lụa vàng.
Năm sáng tác: 1940.
Kích thước: 70x48 cm.
Nguồn gốc: mua lại vào năm 1940 bởi cựu kiến trúc sư trưởng thời Đông Dương và là cựu giáo sư của trường Mỹ thuật Hà Nội(cựu Giáo sư của Tô Ngọc Vân, Mai Thu và Vũ Cao Đàm). Tranh được thừa hưởng lại bởi con cháu trong gia đình của vị kiến trúc sư trưởng.







Bức tranh "Ba thiếu nữ" của Tô Ngọc Vân

Friday, September 7, 2018

MỘT SỐ BÁO TẾT

(Trích đăng)
Vương Trí Nhàn

Ba thiếu nữ của Tô Ngọc Vân
Trong thời kỳ hưng thịnh của mình Tự lực Văn đoàn có hai cơ quan ngôn luận là Phong Hoá và Ngày Nay. Phong Hoá xuất bản sớm hơn mang tính cách mở đường, nhiều khi ngả sang đấu tranh gay gắt trong khi Ngày Nay được hình thành muộn hơn và do đó, đằm hơn, chín hơn.
Tên tuổi Thạch Lam đã xuất hiện trên Phong Hoá nhưng với Ngày Nay mới thật là cuộc trình diện đầy đủ. Ở đây, có thời gian ông làm thư ký toà soạn, lo việc sắp xếp bài vở và thực sự đã mang lại cho tờ báo một sắc thái riêng: sắc thái của một ấn phẩm chuyên về nghệ thuật.
Công việc chuẩn bị cho những số báo Tết càng cho thấy rõ điều đó.
Nhìn vào Ngày Nay số 198, số Tết 1940, trước tiên chúng ta bắt gặp mấy lời rào đón mà dù Thạch Lam không ký tên, ta cũng đoán ra chỉ ông mới viết như thế.

Ông thận trọng giới thiệu bức tranh phụ bản mang tên Dưới hoa do Trần Văn Cẩn vẽ, cho thấy rằng đây là “một bức vẽ có giá trị, những nét uyển chuyển hợp với các màu nhã và êm dịu”, bởi lẽ, qua những hình ảnh được phác hoạ “hai thiếu nữ, tóc còn buông xoã, mình hơi gầy vì còn non trẻ đứng tựa dưới cành hoa phù dung” người ta có được “một cảm giác mát mẻ và tươi sáng”.

Ông dừng lại kỹ hơn ở bức tranh dùng làm phụ bản cho báo, bức Ba thiếu nữ của Tô Ngọc Vân. Nói về một tác phẩm mà như Thạch Lam gọi ra cái thần của người nghệ sĩ (cố nhiên đây là Tô Ngọc Vân trước 1945):
“trong nét bút và màu sắc của hoạ sĩ này, có phảng phất một đằm thắm xác thịt, một tình yêu các hình thể nõn nà vừa đến độ nẩy nở. Một vài đường nhịp nhàng và hoạt động, sự hoà hợp của vài màu tươi thắm, thế là hoạ sĩ đủ khiến chúng ta có một cảm giác hơi say mê và ân ái. Và nhận thấy cùng một lúc cái nghệ thuật chắc chắn và cái thông minh ý nhị của hoạ sĩ”
.
Tiếp đó, Thạch Lam trình bày qua về cách sắp xếp bài vở, về những khó khăn trên các phương tiện in ấn mà toà soạn đã phải tìm cách vượt qua để mang lại cho tờ báo một tính cách hoàn hảo.
Đọc những dòng này, ai người có lúc vào trong hậu trường bếp núc của việc làm báo Tết, ắt hẳn cảm thấy được thông cảm: ra cái sự làm báo Tết, thời nào cũng vậy. Không phải ngẫu nhiên mà trong một bài viết ở số Tết ấy, Thạch Lam lấy câu cách ngôn Ả -rập sau đây làm đề từ:
Hưởng, đấy là khôn ngoan;
Khiến hưởng, đấy là đức hạnh.

Đặt vào hoàn cảnh của số báo, câu này có nghĩa: làm cho người khác vui, chuẩn bị những món thức ăn tinh thần ngon lành thanh sạch cho bạn đọc thân yêu, đấy là đạo đức của người làm báo. Ở chỗ này, mỗi người cầm bút giống như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn Thạch Lam, những người chi chút kỹ càng, lấy sự tận tuỵ hy sinh làm lẽ sống của chính mình.
Chẳng những đứng ra đạo diễn chung cả số báo, mà nhiều lần, khi làm báo Tết, Thạch Lam cũng đã góp vào đấy những bài viết riêng. Có khi ông viết về tục đi hái lộc, tục gói bánh chưng, có khi ông trình bày những suy nghĩ riêng về những bức tranh Đông Hồ - vốn là một “tài sản” của vùng Kinh Bắc xưa. Có khi đơn giản hơn mà cũng trực tiếp hơn, ông trình bày những suy nghĩ của mình về mấy ngày Tết. Có vẻ như ông muốn chia sẻ với chúng ta một ít tâm tình và gợi ý: nên hiểu nên sống mấy ngày Tết ra sao.
Bài viết Nghệ thuật ăn Tết tiếp sau đây là một trong những trường hợp đó.
Tuy ngắn, song Nghệ thuật ăn Tết được viết chặt chẽ, súc tích và mang đầy đủ ý vị riêng vốn có ở ngòi bút Thạch Lam, một ngòi bút thiên về cảm giác và thường có những xúc động giàu chất thơ.
Xin lưu ý thêm là trên văn bản còn có cả mấy cái vi nhét nho nhỏ kèm vào bài và cũng là của chính Thạch Lam.



NGHỆ THUẬT ĂN TẾT

Hưởng, đấy là khôn ngoan;
Khiến hưởng, đấy là đức hạnh.
(Cách ngôn Ả-rập)
Ngày Tết, đối với nhiều người, chỉ có thú vị khi nào nghĩ lại - người ta thường hay cùng nhau nhắc tới những Tết năm ngoái, năm xưa với một vẻ mến tiếc âu yếm, lẫn với đôi chút ngậm ngùi. Nhất những Tết ngày còn nhỏ... Lúc ấy, cùng với những nỗi vui ngày Tết đã qua, còn vướng niềm thương tiếc tuổi niên hoa, cái tuổi mà người ta nhận là “vô tư lự”, ngây thơ và sung sướng.
Nhưng nỗi nhớ tiếc ấy chẳng ích lợi gì, mà lại ngăn chúng ta không toàn hưởng được thời khắc hiện giờ. Đậm đà, mạnh mẽ hơn bao nhiêu là sự hưởng thụ ngay hiện tại, thêm vào cái thú hưởng những giờ vui, cái thú vô song của sự mình biết mình đương hưởng.
Ngày còn ít tuổi, tôi không hiểu biết được cái thú uống trà. Chén trà thơm lúc đó như sao bằng được những mộng đẹp tôi đang mơ tưởng trong lòng. Bây giờ tôi đã có biết rồi - và thỉnh thoảng một buổi sớm hay trưa, nâng chén trà lên để nhìn qua hương khói. Hưởng hương vị chén trà thì ít, nhưng hưởng cái thú ở đời, và nhất là hưởng cái giờ khắc nghỉ ngơi, nhàn nhã, mà tự mình cho phép (người ta chỉ có thể hưởng được cái khoái lạc của nghỉ ngơi, khi biết cái nghệ thuật nghỉ ngơi cũng như biết cái nghệ thuật làm việc).
Tôi hiểu là vô ích và điên dại cuộc theo đuổi mộng ảo không cùng, việc lần để ngày lại ngày hạnh phúc. Tôi hiểu rằng hoa nở sớm nay cũng tươi đẹp chẳng kém hoa nở ngày mai, thời tiết xuân nay êm dịp hơn xuân bao giờ hết, và trời trong cùng ánh nắng kia hiện giờ đã đẹp vô ngần...
Tết! Còn dịp nào trong đời ta nhiều thú vị vui tươi hơn nữa. Ngày Tết nhắc ta nhớ lại những Tết đã qua, và khuyên ta an hưởng ngay cái Tết bây giờ. Đêm giao thừa “thời gian qua nghỉ bước trên từng cao”[1] là giờ khắc say sưa êm dịu nhất. Hưởng mùi thơm thuỷ tiên, cánh hồng hoa đào nở, hưởng làn khói trầm vấn vít đủ lên cao. Hưởng đi, trong cái khoái lạc của sáng suốt, trong cái minh mẫn của tinh thần, trong sự thư thái thảnh thơi của lòng bình tĩnh. Tiếc thương như gia vị và mong mỏi như làm ấm nóng cái thú vô cùng.
Rượu sánh trong cốc pha lê trong trộn mùi khói pháo với hương thuỷ tiên. Tiếng pháo nổ vui từ nhà nọ sang nhà kia, liên tiếp, đi mãi vào trong đêm để làm vang động bầu không khí xuân của khắp cả các gia đình. Đó là tiếng hiệu lệnh của sự thông đồng chung hưởng.
*
* *
Lúc đó mỗi nhà đều uống rượu thưởng năm mới. Rồi chiếc bánh chưng đầu năm mang lên, xanh mịn trên đĩa trắng. Bánh chưng gói khéo thì vuông và chắc rắn: gạo mềm và nhiễn, nhân đậu và mỡ quánh vào nhau. Chỗ nạc thì tơi ra như bông gạo. Có nhà gói lắm nạc, nhưng nhiều mỡ vẫn ngon hơn: mỡ phần, chỗ giọi, lúc chín thì trong, và không có thớ. Bánh chưng kể mặn là phải vị. Nhưng có dăm bảy chiếc gói ngọt cũng hay. Chỉ khó làm sao cho đừng sượng, và đường với đậu phải biến với nhau mà thôi.

Tưởng lúc xén đũa đưa miếng bánh chưng lên, thoảng mùi lá dong thơm và mùi nếp cái, ăn với dưa hành trong như ngọc thạch, hoặc với củ cải đậm và ròn như pháo xuân! Đó là tất cả hương vị của cái tết Annam, ngày nay và ngày xưa.
*
* *
Sáng mồng một, chúng ta uống rượu và ăn mứt. Rượu hẳn là phải rượu tây: những thứ vang cũ ngọt như Porto, nồng chua nhưVermouth, hay say như Cognac. Uống những thứ ấy thích hơn liqueurs. Nhưng sao ta không có rượu ngon của ta? Tiếc vì bây giờ cái gì của người mình cũng vụng về và giả dối. Còn đâu thứ rượu cau có tiếng ở Hoàng Mai, thứ rượu cúc nổi danh ở tỉnh Bắc? Cái hào nhoáng, cái lộng lẫy bề ngoài đã thay cái chân thực, cái cẩn thận của người xưa. Đơn sơ và cẩu thả đã cướp chỗ của tốt bền, ở tất cả những sản phẩm của nước mình.
*
* *
Mứt ngày trước cũng ngon và khéo léo hơn mứt bây giờ. May gần đây, sự làm đã khá. Đã có mứt sen Cự Hương, mứt khoai Việt Hương, vị cũng nhã, mà trình bày lại sạch sẽ, tinh tươm. Đem làm quà ngày Tết kể cũng tạm được.
Mứt phải đủ ngũ vị: ngọt, bùi, đậm, béo và cay. Thứ mứt gừng cay là quý nhất. Chỉ tiếc thay mứt gừng ngoài Bắc thô và mạnh quá. Tôi ước ao được một ngành mứt gừng ở trong Trung - mứt gừng của Huế, làm bằng mầm gừng non và cả nhánh, trong như ngọc và cay mềm dịu cũng như con gái Huế.
*
* *
Thế rồi đi du xuân ngày mồng một, nhìn cây nêu phấp phới trước các nhà, tiếng khánh sành reo theo gió. Một cuộc hoà nhạc của sắc màu: quần áo mới của bầy trẻ, xác pháo đỏ trên gạch rêu, màu hồng nhạt hay đỏ tươi của câu đối giấy dán trên cổng, và màu củ cẩm (hay cánh sen) trên những tranh tết – nhất là cái màu tím mát ấy, màu của đất nước Annam, của thời xưa chân thật mà không bao giờ nhìn tôi không thương nhớ ngậm ngùi...
Trong lúc đó, trời xuân đầy mây thấp và gần gụi, thời tiết êm ả như đợi chờ, gió xuân nhẹ như hơi thở, và cây cối đều nở mầm non, lộc mới - tất cả cái gì như đầm ấm, như dịu dàng. Còn hưởng cái thú nào man mác và thanh cao hơn nữa?
*
* *
Cho nên ngày Tết, tôi mong các bạn cùng vui vẻ tươi sáng như ánh mùa xuân, trong khi lần giở những trang của tập báo vì các bạn này.
Nguồn: Ngày Tết đọc Thạch Lam - Vương Trí Nhàn (Trích đăng từ www.viet-studies.info), Đặc San Đất Lạnh, CHỦ NHẬT, 26 THÁNG 1, 2014
Trich "Giới thiệu Phong Hóa Ngày Nay"
MỸ THUẬT

Đông Sơn Nhất Linh đỗ đầu cuộc thi tuyển nhưng chỉ học một năm tại trường Mỹ Thuật Đông Dương. Khi bắt đầu Phong Hóa, ông phụ trách trang trí, vẽ minh họa cho toàn thể báo nhà, về sau, chỉ còn minh họa riêng các truyện mình viết thôi. Người đọc không thể quên những nét vẽ của ông trong những bức tranh các cô gái dịu dàng, những cây hoàng lan cao lớn đưa cành lá xậm mầu, xòa xuống chơi vơi trong đêm vắng, như đong đưa …

Thêm nữa, nhiều người trong ban biên tập cũng rất yêu hội họa, đôi khi trong Phong Hóa và Ngày Nay ta thấy tranh Khái Hưng, tranh Hoàng Đạo …. Rồi nhiều truyện bằng tranh do Cát Tường vẽ, Thế Lữ viết lời, cũng được xuất hiện.

Những năm sau Phong Hóa và Ngày Nay luôn luôn có họa sĩ nhà nghề trình bầy báo, vẽ tranh. Những họa sĩ nổi tiếng của Việt Nam như: Nguyễn Giá Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường, Trần Bình Lộc, Nguyễn Tường Lân (họa sĩ này có tên trùng với Thạch Lam), Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung...

Hàng năm, trên Phong Hóa và Ngày Nay đều có bài bình luận tranh của những phòng triển lãm ở Hà Nội, do Nguyễn Đỗ Cung, Tô Tử Tô Ngọc Vân, Lemur Nguyễn Cát Tường, Thạch Lam… viết. Điều này đã nâng cao óc thẩm mỹ, lòng yêu vẻ đẹp cho người đọc. Ngoài ra, báo Phong Hóa và Ngày Nay dùng nhiều tranh vẽ rất có giá trị của các họa sĩ tốt nghiệp trường Mỹ Thuật Đông Dương làm bìa báo.

Được đặc biệt chú ý là:

Tranh bìa báo Xuân Ngày Nay số 46, 1937 của họa sĩ Nguyễn Gia Trí,

Tranh bìa báo Xuân Ngày Nay số 198, 1940 của họa sĩ Tô Ngọc Vân

Hiện nay chúng là những bức tranh quý, được tìm mua tại những cuộc đấu giá quốc tế (dù chỉ là tranh in chụp lại!)…
Xem:
  • Tạp chí Ngày Nay, TẬP 198 - 12 Tháng Hai 1940 - Thư viện Người Việt - © 2018 Người Việt Daily News

  • Ngày Nay, 12 Tháng Hai 1940 - Thư viện báo chí của Thư viện Quốc gia Việt Nam



  • Tô Hiệu – Người chiến sĩ Cộng sản kiên trung

    Monday, September 3, 2018

    Tô Hiệu – Người chiến sĩ Cộng sản kiên trung

    Lê Hiền

    Đồng chí Tô Hiệu là một người yêu nước, một chiến sỹ cộng sản thuộc thế hệ đầu tiên của Đảng, trí tuệ, kiên trung, bất khuất, trọn đời chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì độc lập tự do của dân tộc, là người gieo mầm cách mạng trên quê hương Sơn La. Đồng chí đã anh dũng hy sinh tại nhà tù Sơn La. Nhân kỷ niệm 73 năm ngày mất đồng chí Tô Hiệu 7/3/1944 – 7/3/2017 chúng tôi xin giới thiệu đôi nét về thân thế sự nghiệp và những đóng góp của đồng Tô Hiệu với sự nghiệp cách mạng của Đảng.

    Video STV
    Đồng chí Tô Hiệu sinh năm 1912, tại xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hải Dương (nay thuộc tỉnh Hưng Yên) là con út trong một gia đình nho học nghèo, thân mẫu của đồng chí Tô Hiệu là người yêu nước quả cảm, có công nuôi dưỡng, bảo vệ cán bộ cách mạng, được nhân dân địa phương kính trọng. Thừa hưởng truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê hương, đ/c Tô Hiệu đã tham gia các phong trào yêu nước của học sinh khi mới 14 tuổi. Trưởng thành trong hoạt động thực tiễn, năm 1929, đồng chí được kết nạp vào Học sinh đoàn, một tổ chức của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Cuối năm 1929, Tô Hiệu vào Sài Gòn hoạt động. Năm 1930, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án 4 năm tù, đày đi Côn Đảo. Trong thời gian bị giam cầm ở chốn địa ngục trần gian Côn Đảo, đồng chí vẫn tiếp tục tham gia, tổ chức đấu tranh, tích cực học tập lý luận cách mạng và trở thành người đảng viên cộng sản giàu nhiệt huyết, có bản lĩnh vững vàng.

    Năm 1934 ra tù, dẫu bị thực dân Pháp quản thúc tại làng quê, nhưng với tinh thần yêu nước, đồng chí Tô Hiệu vẫn bí mật gây dựng phong trào cách mạng ở quê hương, rồi bắt liên lạc với Đảng. Khi thành lập Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí Tô Hiệu được bầu là Ủy viên Thường vụ Xứ ủy, phụ trách các tỉnh miền duyên hải, lấy Hải Phòng làm trung tâm. Trên cương vị mới, đồng chí Tô Hiệu đã tổ chức lại ban chỉ đạo các tỉnh, thành và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh lớn ở Thành phố Hải Phòng.

    Năm 1939 đồng chí Tô Hiệu bị địch bắt và kết án 5 năm tù đi đày ở Nhà tù Sơn La. Cũng thời gian này, Chi bộ nhà tù Sơn La được thành lập. Tháng 02-1940, đồng chí Tô Hiệu được cử làm Chi uỷ viên. Tháng 5-1940, Đại hội Chi bộ bí mật của nhà tù quyết định các chủ trương công tác mới và bầu đồng chí Tô Hiệu làm Bí thư chi bộ. Đồng chí đã biến nhà tù thành trường học cách mạng vừa chú trọng đến công tác xây dựng Đảng, vừa quan tâm thành lập các tổ chức trong nhà tù, vượt lên bệnh tật để tổ chức công tác giáo dục trong tù, viết nhiều tài liệu quan trọng cho Chi bộ, mở các lớp chính trị, quân sự, văn hóa, bồi dưỡng giảng viên, hướng dẫn các cuộc đấu tranh…
    Tháng 5-1941, đồng chí Tô Hiệu và Chi bộ Nhà tù Sơn La đã quyết định cho ra đời báo Suối Reo, cử đồng chí Trần Huy Liệu là chủ bút. Báo Suối Reo ra đời là một sự kiện lớn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần, cổ vũ động viên rất lớn đối với anh em tù nhân ở nhà tù Sơn La. Ý chí kiên cường của Tô Hiệu đã khiến quân thù phải khiếp sợ. Tấm gương và tinh thần Tô Hiệu còn thể hiện ở thái độ lạc quan cách mạng. Trong địa ngục trần gian của chốn lao tù đế quốc, đồng chí Tô Hiệu vẫn động viên đồng chí, đồng đội của mình tin tưởng vào tương lai của cách mạng, tương lai của đất nước. Do căn bệnh hiểm nghèo và chế độ hà khắc của nhà tù, đồng chí Tô Hiệu đã hy sinh vào hồi 10 giờ 15 phút, ngày 7-3-1944 tại Nhà tù Sơn La, khi ở tuổi 32. Đồng chí được an táng tại Vườn Ổi (nghĩa trang Nhà tù Sơn La).

    Cuộc đời tuy ngắn ngủi, song tấm gương, tinh thần cách mạng quả cảm, kiên trung của đồng chí Tô Hiệu là tài sản vô giá, là bài học to lớn về truyền thống cách mạng của Đảng và của lịch sử dân tộc. Tấm gương hy sinh anh dũng, bất khuất của đồng chí là sự tiếp nối những gương anh hùng, liệt nữ trong lịch sử nước nhà. Tinh thần yêu nước, “thà chết chứ không chịu làm nô lệ” của con dân nước Việt qua tấm gương Tô Hiệu ở thời đại Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục được nối dài trường tồn cùng dân tộc. Hơn 70 năm qua, dù bao phong ba bão táp, cây đào đ/c Tô Hiệu trồng tại nhà tù Sơn La vẫn ra hoa, kết trái mỗi độ xuân về. Cây Đào đã trở thành biểu tượng không chỉ cho tinh thần đấu tranh bất khuất, kiên cường của các chiến sỹ cách mạnh năm xưa mà còn thể hiện ý chí quyết tâm của Đảng bộ tỉnh Sơn La trong thực hiện hoàn thành mục tiêu sớm xây dựng Sơn La trở thành tỉnh phát triển khá trong vùng Trung du và miền núi phía bắc trong giai đoạn tới./.


    Lê Hiền

    Nhà cách mạng Tô Hiệu - Các video sưu tầm trên YouTube

    Nhà cách mạng Tô Hiệu



    Trọng Quốc Nguyễn Xuất bản 3 thg 4, 2016.



    Chuyện Về Cây Đào TÔ HIỆU – Từng Có Một Mùa Đào Như Thế

    MT Home Xuất bản 13 thg 2, 2018
    Cứ mỗi khi Tết đến xuân về, nhìn cành đào thắm tươi là lòng người man mác với thời khắc đất trời giao chuyển. Cây đào không chỉ là loài cây biểu trưng cho ngày Tết cổ truyền của dân tộc, mà trên mảnh đất Sơn La, nơi ghi dấu những năm tháng chiến tranh ác liệt có một cây đào mang tên người chiến sĩ cộng sản anh hùng, cây đào ấy còn là biểu tượng cho ý chí kiên cường bất khuất của người cộng sản. Đó là cây đào gắn với tên tuổi của người anh hùng Tô Hiệu.



    Di tích Nhà tù SơnLa (cả cây đào Tô Hiệu và cây đa bản Hẹo) 11-2012

    ngọc xuân Xuất bản 20 thg 4, 2013
    Giới thiệu một di tích còn đúng nghĩa với đầy đủ những đổ nát, mục rã của dấu thời gian.
    Mong rằng sẽ còn nhiều "di tích đúng nghĩa" được tiếp tục khám phá, gìn giữ hết sức trân trọng (và cũng ước mong không còn thấy nơi nào xây thêm "những di tích mới" nữa (như di tích Ngục KonTum).
    Nhân tiện, chúng tôi kèm thêm hình ảnh "di tích Cây Đa bản Hẹo", nơi liên lạc của tù cách mạng với Trung ương Đảng Công Sản.



    Nhà tù Sơn La - Nơi đ/c Tô Hiệu hy sinh

    Vương Ninh Xuất bản 7 thg 11, 2015



    Video về nhà tù sơn la và số liệu đầy đủ các mốc lịch sử.

    HỒNG THANH Xuất bản 19 thg 4, 2016

    Nguồn: YouTube

    Hát dưới cây đào Tô Hiệu

    Hát dưới cây đào Tô Hiệu

    Video Sưu tầm

    Nhạc và lời: Hồ Bắc
    Anh trồng cây đào trên quê hương ta.
    Khi mùa xuân đến hoa nở ngát rừng.
    Quây quần bên gốc đào này.
    Tưởng nhớ tới người trồng cây.
    Từ trong ngục tối đã gieo mầm.
    Cho mùa xuân sớm nay.

    Người trồng đào ươm mầm giống cách mạng.
    Trên quê hương chúng ta.
    Rừng càng thương núi càng nhớ.
    Ghi công ơn người.
    Người trồng đào người chiến sĩ muôn đời sống mãi.
    Với quê hương thân yêu với mùa đào.
    Tỏa sáng khắp trên núi rừng.
    *
    Em từ nông trường anh công nhân bản xa.
    Ta về dưới gốc cây đào quê nhà.
    Tung còn trong nắng hiền hòa.
    Xòe hát ca ngợi đảng ta người đem hạnh phúc.
    Cho bản mường cho núi rừng tây bắc ta.

    Người trồng đào ươm mầm giống cách mạng.
    Trên quê hương chúng ta.
    Rừng càng thương núi càng nhớ.
    Ghi công ơn người.
    Người trồng đào người chiến sĩ muôn đời sống mãi.
    Với quê hương thân yêu với mùa đào.
    Tỏa sáng khắp trên núi rừng.


    HaNoi Humans Xuất bản 22 thg 9, 2015.

    Mãi Thắm Sắc Đào

    Sunday, September 2, 2018

    Thắm mãi sắc đào Tô Hiệu



    Phim được VTV3 thực hiện cách đây 21 năm nên chất lượng hơi kém. Mong các bạn thông cảm.
    Nhân ngày giỗ lần thứ 74 của liệt sỹ Tô Hiệu ngày 07/03/1944 - 07/03/2018 (ngày 13 tháng 2 âm lịch), xin post lên như một nén nhang tưởng nhớ cụ.


    Nguồn: YouTube 11 thg 3, 2018

    Làng Xuân Cầu tổ chức tưởng niệm 762 năm ngày hóa đức Thành hoàng làng

    Làng Xuân Cầu tổ chức tưởng niệm 762 năm ngày hóa đức Thành hoàng làng

    Video Dat Tuan





    Nguồn: YouTube 29 thg 5, 2018

    Đại tá an ninh Nguyễn Tài và 2000 ngày đấu trí với CIA

    Saturday, September 1, 2018

    Đại tá an ninh Nguyễn Tài và 2000 ngày đấu trí với CIA

    Lan Hương (thực hiện)

    Từng bị bắt giam và tra tấn suốt 5 năm trời, được CIA coi là tù nhân quan trọng nhất và không chấp nhận đánh đổi với mọi giá, nhưng ngay cả những tên điệp viên sừng sỏ nhất của CIA tại Việt Nam, với đầy đủ ngón nghề tra tấn và hỏi cung lão luyện cũng không khuất phục được ông - Đại tá an ninh Nguyễn Tài - nguyên Thứ trưởng Bộ Công an.

    Nhân dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Lực lượng Công an nhân dân, Chuyên đề An ninh thế giới Giữa tháng - Cuối tháng xin được giới thiệu với độc giả về một con người là biểu tượng cho ý chí không thể khuất phục được của những người chiến sĩ công an.


    Rơi vào tay CIA

    Ngày 10/6/2002, tại TP Hồ Chí Minh, Bộ Công an đã tổ chức trọng thể lễ tuyên dương Anh hùng LLVTND thời chống Mỹ cho Đại tá an ninh Nguyễn Tài - nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan. Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi đó là người đã đề nghị Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho ông với hai lý do: Trung kiên bảo vệ Cách mạng trong nhà tù Mỹ - ngụy và dũng cảm bảo vệ nhân cách trong sáng của một Đảng viên trước nhân dân.

    Ngày hôm đó, vợ ông - người đã luôn ở bên ông trong suốt chặng đường đấu tranh để chứng minh sự trong sạch của chồng mình, khi chứng kiến giờ phút ông được vinh danh, đã có một hành động khiến tất cả những người có mặt trong buổi lễ đó lặng người đi vì xúc động: Bà kính cẩn hôn lên chiếc huân chương Anh hùng LLVTND trên ngực ông và khóc. Khi đó ông “nạt” bà: “Sao lại khóc trong giờ phút này?”. Nhưng tất cả những người chứng kiến giây phút ấy đều hiểu lý do vì sao bà khóc. Bà khóc bởi để đi đến được ngày hôm nay, người chồng anh hùng của bà đã phải hi sinh xương máu, đã phải đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ lẽ phải, để đòi lại công lý và sự trong sạch cho bản thân mình.

    Đại tá Nguyễn Tài tên thật là Nguyễn Tài Đông, sinh ngày 11/12/1926, là con trai của nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan. Cái tên Nguyễn Tài là tên ông lấy khi đi hoạt động cách mạng. Xuất thân trong một gia đình cách mạng, Nguyễn Tài đã sớm tham gia hoạt động trong Đoàn Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu từ hồi thanh niên. Tháng 3/1945, ông trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương.

    Có cha là nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tài đã từng làm công tác biên tập và phụ trách in báo Nước Nam Mới (cơ quan của Khu giải phóng Tân Trào), sau đó là sáng lập viên của báo Công an Mới (tiền thân của báo Công an nhân dân ngày nay). Nhưng các nhà lãnh đạo Đảng sớm nhận ra tố chất của ông, nên đã đào tạo ông trở thành một sĩ quan an ninh gạo cội của lực lượng Công an Việt Nam.

    31 tuổi, ông đã giữ chức Cục trưởng Cục Bảo vệ Chính trị - một trong những cục có thể nói là quan trọng nhất của ngành Công an, với nhiệm vụ đập tan mọi hoạt động mang tính bí mật của các thế lực nhằm chống lại Nhà nước Xã hội chủ nghĩa.

    Năm 1964, Nguyễn Tài xung phong vào miền Nam chiến đấu. Thời điểm đó, ông là cán bộ miền Bắc có chức vụ cao nhất trong ngành Công an vào chiến trường miền Nam. Là một sỹ quan an ninh có trình độ nghiệp vụ cao, nên Nguyễn Tài rất được Bác Hồ tin tưởng. Nguyễn Tài từng theo bảo vệ Bác Hồ trong những chuyến Bác đi thăm các nước trên thế giới.

    Nhiều người kể rằng khi biết tin Nguyễn Tài xung phong vào Nam, Bác Hồ đã gửi một bức điện vào chiến trường miền Nam với nội dung: “Chú Nguyễn Tài là tài sản quý của Đảng, mọi người phải bảo vệ chú ấy”. Năm 1964, Nguyễn Tài vào miền Nam bằng đường biển. Ông trở thành Trưởng ban An ninh T4 (Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định, tiền thân của Công an TP. HCM ngày nay), hoạt động với bí danh Tư Trọng.

    Bà Nguyễn Thị Nghiêm - vợ của Đại tá Nguyễn Tài kể rằng, tuy là vợ chồng và có với nhau 4 mặt con, nhưng cho đến tận trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà không hề mảy may biết bất cứ một điều gì về công việc và nhiệm vụ của chồng. Tất cả những gì ông cho bà biết về ông là “một cán bộ công tác tại Bộ Công an”. Năm 1964, ông lên đường vào Nam chiến đấu rồi những năm sau này, cho đến trước khi ông bị bắt năm 1970, trong những bức thư ông gửi về thăm vợ con, ông cũng tuyệt đối không hé răng về nhiệm vụ của mình.

    6 năm đầu vào Nam chiến đấu, đều đặn mỗi năm 2 - 3 lần, Nguyễn Tài đều gửi thư về nhà báo tin cho gia đình. Nhưng bắt đầu từ cuối năm 1970, thì gia đình nhà văn Nguyễn Công Hoan không còn nhận được tin con trai nữa. Bà Nguyễn Thị Nghiêm nhớ lại: “Suốt gần 1 năm trời không có tin của chồng tôi, dù không nói ra nhưng cả gia đình tôi đều đã linh cảm có chuyện không lành.

    Đến cuối năm 1971 thì mẹ chồng tôi quyết định lên gặp đồng chí Trần Quốc Hoàn, khi đó là Bộ trưởng Bộ Công an, hỏi chuyện. Mẹ chồng tôi nói với Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn: “Gia đình tôi có rất nhiều người đi tù và hi sinh trong kháng chiến chống Pháp, chúng tôi đã quen chịu đựng nỗi đau này. Chúng tôi luôn chuẩn bị tinh thần đối mặt với tình huống xấu nhất và sẵn sàng chịu đựng nó. Vì thế nếu con trai tôi có chuyện gì không lành, xin anh cứ nói”.

    Sau một hồi lâu cân nhắc, Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn mới nói: “Đồng chí Nguyễn Tài không may bị địch bắt trong một chuyến công tác. Nhưng theo thông tin chúng tôi có được hiện nay, đồng chí Tài hiện vẫn an toàn”. Đó là một tin sét đánh đối với mẹ chồng tôi. Nhưng trước mặt Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, mẹ tôi đã bình tĩnh hết mức có thể: “Cảm ơn anh đã nói thật với gia đình. Chúng tôi hứa sẽ chỉ có 3 người lớn trong nhà chúng tôi biết điều này. Đây sẽ là bí mật đối với các cháu tôi”.

    Tin Nguyễn Tài bị bắt là tin sét đánh đối với cha mẹ và vợ ông. Cả gia đình ông chuẩn bị tinh thần cho điều xấu nhất sẽ xảy ra, bởi dù không hề biết công việc ông làm, họ cũng lờ mờ cảm nhận được vai trò quan trọng của ông ở Bộ Công an. Khi đó Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn trấn an gia đình Nguyễn Tài rằng ông hiện vẫn an toàn và chưa lộ tung tích, nhưng sự thật thì giặc đã phát hiện ra ông là một “con cá lớn” mà chúng vô tình “kéo lưới” được và thực hiện đủ những thủ thuật tra tấn và hỏi cung nhằm khuất phục ông bằng mọi giá.

    Ngày 23/12/1970, Nguyễn Tài bị địch bắt trên đường đi công tác với thẻ căn cước giả mang tên Nguyễn Văn Lắm. Khi bị phát hiện dùng thẻ căn cước giả, với bản lĩnh của một sĩ quan an ninh, Nguyễn Tài đã nhanh chóng vạch ra một “trò chơi nghiệp vụ” để đánh lạc hướng và gây rối cho quá trình điều tra, nhằm bảo vệ tuyệt đối cơ sở của Ban an ninh T4 cũng như quyết tâm không để địch phát hiện ra thân phận thật của ông.

    Suốt 6 tháng đầu sau khi ông bị bắt, địch chỉ biết về ông theo những gì ông “bịa” ra: Đại úy Nguyễn Văn Hợp, sỹ quan tình báo hoạt động đơn tuyến, được cử vào miền Nam nhằm xã hội hóa, chờ ngày chiến tranh kết thúc thì sang hoạt động ở Pháp dưới vai trò phóng viên.

    Nguyễn Tài bị đưa về số 3 Bạch Đằng - Trung ương Cục Tình báo của ngụy quyền Sài Gòn - nơi tập trung những tên tình báo sừng sỏ nhất của Mỹ - ngụy. Cục Tình báo của ngụy quyền Sài Gòn đã cho những tên hỏi cung chuyên nghiệp nhất đến hỏi cung ông, dùng máy kiểm tra nói dối đối với từng câu trả lời của ông, thậm chí còn gài người vào nhà tù, giả làm đồng chí đồng đội của ông để moi tin ông. Nhưng tất cả những thử thách đó của địch đều vô nghĩa với một sỹ quan an ninh kỳ cựu như Nguyễn Tài.

    Sau 6 tháng trời lấy cung Nguyễn Tài, những tên tình báo sừng sỏ của ngụy quyền Sài Gòn hầu như đã bị Nguyễn Tài qua mặt. Bọn chúng có nằm mơ cũng không dám nghĩ rằng chúng đang có trong tay người lãnh đạo của Ban An ninh T4 và cũng là lãnh đạo cao nhất của Công an Việt Nam từ miền Bắc vào miền Nam chiến đấu.


    Cuộc đấu trí trong xà lim của Trung ương Cục tình báo ngụy

    Nguyễn Tài chỉ bị lộ vì một sự sơ suất đầy trớ trêu của số phận. Đúng vào lúc những tên tình báo ngụy ở Trung ương Tình báo ngụy quyền số 3 Bạch Đằng đã tin vào lời khai của ông, thì cũng là lúc địch vô tình thu giữ được một lá thư quan trọng khi bắt được Hai T. (một cán bộ công tác tại Ban An ninh T4).

    Nội dung bức thư như sau đã được đồng chí Ba Tâm gửi cho Hai T: “Tìm Nguyễn Văn Lắm, bị bắt trên sông Cửu Long ngày 23/12/1970 hiện giam ở đâu để lo tiền chuộc”. Lấy làm lạ về lá thư này, địch đã cho người điều tra, bởi chúng thắc mắc tại sao một nhân viên tình báo hoạt động đơn tuyến lại được người của Ban An ninh T4 tìm chuộc. Cho người đi điều tra, địch phát hiện Ban An ninh T4 sẵn sàng bỏ ra vài triệu để chuộc người có cái tên Nguyễn Văn Lắm này.

    Đến lúc này địch mới lờ mờ cảm nhận được Nguyễn Văn Lắm đã bị bắt và khai là Đại úy Nguyễn Văn Hợp - chắc chắn không thể là một sỹ quan tình báo bình thường mà phải là một nhân vật chóp bu của Ban An ninh T4, nên mới đáng để Ban An ninh T4 tha thiết chuộc với ngần ấy tiền. Với những nghi ngờ đó, cộng với việc Hai T. và một số cán bộ bị bắt không chịu được tra tấn đã phản bội, địch đã phát hiện ra Nguyễn Văn Lắm, tức Nguyễn Văn Hợp thực chất chính là Nguyễn Tài, tức Tư Trọng - Trưởng Ban An ninh T4, cái tên luôn nằm trong hồ sơ truy bắt ráo riết của ngụy quyền Sài Gòn.

    Biết mình đã bắt được “con cá sộp”, Trung ương Cục tình báo của ngụy quyền Sài Gòn đã không bỏ lỡ cơ hội để tìm mọi cách moi tin từ Nguyễn Tài - người mà chúng gọi là “một trong những tên an ninh đầu sỏ của Việt cộng”.

    Sau khi tìm mọi cách chụp trộm ảnh ông và cho những kẻ phản bội nhận diện ông, xác định được ông chắc chắn là Nguyễn Tài - Cục trưởng Cục Bảo vệ Chính trị - Bộ Công an và Trưởng Ban An ninh T4, địch đã xây dựng một kế hoạch bài bản để moi thông tin của ông, từ việc điều tra nhân thân, đến việc sử dụng các biện pháp tra tấn về cả tinh thần lẫn thể xác. Những tên CIA Mỹ sừng sỏ nhất ở Việt Nam đích thân vào cuộc.

    Trong hồi ký, Đại tá Nguyễn Tài kể, khi bắt đầu phát giác ra ông là Tư Trọng - Trưởng Ban An ninh T4 và là con trai của nhà văn Nguyễn Công Hoan, địch đã mang đến cho ông những cuốn tiểu thuyết và những cuốn sách có in ảnh cha ông - nhà văn Nguyễn Công Hoan, rồi mang cả tấm ảnh ông chụp với Bác Hồ trong chuyến đi thăm xứ Nam Dương. Sau khi đã “đánh bài ngửa” với ông, địch bắt đầu đối xử với ông theo cách mà chúng đương nhiên sẽ đối xử với một người tù là Đại tá an ninh.

    Thời gian đầu, chúng mua chuộc ông bằng cách dùng bác sĩ kiêm nhân viên tình báo đến vừa khám bệnh, vừa đánh vào tâm lý. CIA Mỹ liên tục rót vào tai ông những lời dụ dỗ: “Nếu ông chấp nhận hợp tác với chúng tôi và nếu ông không thích sống trong nước nữa, ngay lập tức ông sẽ có 20 triệu USD và một căn biệt thự ở Thụy Sỹ, sống xa hoa suốt đời như một triệu phú”, nhưng ông từ chối.

    Mỗi ngày ông đều bị đưa lên hỏi cung. Giờ hỏi cung khác nhau, không kể đêm ngày. Mục đích của CIA là làm ông rối loạn. Chúng bắt ông nhịn ăn, nhịn uống và giam ông trong một căn phòng sơn trắng toát, có luồng không khí lạnh buốt và không có không khí để thở khiến đầu óc ông rối loạn, không ngủ được. Căn phòng đó luôn bị CIA giám sát 24/24 bằng một máy camera hồng ngoại được đặt bí mật trên trần nhà. Bị thiếu ăn, lại sống trong điều kiện khắc nghiệt, mất ngủ, cộng với việc thường xuyên bị hỏi cung khiến đã có những lúc đầu óc ông luôn ở trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Nhưng Nguyễn Tài đã rèn cho mình một bản lĩnh thép. Lúc bình thường khi không bị hỏi cung, ông luôn mê mê tỉnh tỉnh. Nhưng cứ lúc bị CIA gọi lên, ông lại tỉnh táo lạ kỳ và đối đáp trơn tru trước sự thẩm vấn của chúng.

    Sợ CIA sẽ tiêm các loại thuốc khiến mình mất kiểm soát, ông còn tập cho mình nói câu “quên”, “quên rồi” để đề phòng ngay cả lúc nửa tỉnh nửa mê ông vẫn có thể nói câu “quên rồi”. Có những đợt nhiều tháng trời, CIA hỏi câu nào, từ hoạt động cách mạng đến tổ chức của ngành Công an và các bí mật nghiệp vụ, Nguyễn Tài cũng chỉ trả lời duy nhất có một câu: ‘Quên rồi”.

    Khi nhận ra kế hoạch “bàn tay nhung” không hiệu quả với một sỹ quan an ninh kỳ cựu như Nguyễn Tài, CIA đã dùng đến những biện pháp tra tấn dã man nhất. Đêm nào chúng cũng đánh ông 4 - 5 trận như thế, vừa tra tấn về thể xác, vừa tra tấn ông về tinh thần. Để củng cố tinh thần của mình, trong tù ông thường xuyên hát Quốc ca, chào cờ. Ông vẽ một ngôi sao ở trên tường và thường nhìn vào đó mỗi ngày để được tiếp thêm sức mạnh. Ông đi qua những trận tra tấn đó bằng một cách khiến những tên CIA cũng phải kinh hoàng. Chúng nói: “Thật kỳ lạ. Ông ta có thể bị ngất đi vì những trận đòn đau đớn, nhưng chưa bao giờ bật ra một tiếng rên la”.

    Những tên CIA sừng sỏ nhất của Mỹ ở Việt Nam đã đến hỏi cung ông, sử dụng những “ngón nghề” giỏi nhất của CIA nhưng tất cả đều thất bại trước người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Tài. Từ năm 1970 đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975, sau rất nhiều những thủ đoạn, CIA đã thừa nhận chúng đã thất bại trong việc thẩm vấn “con cá lớn” mà chúng bắt được.

    Trong khoảng thời gian Nguyễn Tài bị bắt, đã có những lúc giữa ta và Mỹ - ngụy thỏa thuận về việc trao đổi tù binh. Nguyễn Tài là cái tên được ta đưa lên hàng đầu trong việc thương lượng này. Cuối năm 1972, một hạ sỹ quan Mỹ đã được thả ra, kèm theo đề nghị thiện chí của ta: đổi Nguyễn Tài lấy một sỹ quan ngoại vụ của Mỹ bị bắt ở Việt Nam. Nhưng CIA đã kịch liệt chống lại việc trao trả Nguyễn Tài với lý do: “Tài là một cán bộ cao cấp nhất của tình báo Cộng sản; đó là người “quá quan trọng” để thực hiện bất cứ cuộc đổi chác nào”.

    Trong hồi ký của mình, Frank Snepp đã khẳng định CIA coi Nguyễn Tài là “một tài sản hấp dẫn nằm trong tay Sài Gòn”, một thứ tài sản không thể đánh đổi. Chính vì lẽ đó mà Nguyễn Tài nằm ngoài mọi kế hoạch trao đổi tù binh. Ngay cả sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ - ngụy cũng không hề áp dụng chính sách trao trả tù binh với Nguyễn Tài.


    Ngày trở về…

    Trong lúc Nguyễn Tài bị giam và tra tấn gần 2.000 ngày, thì ở Hà Nội cả gia đình ông, từ cha mẹ đến vợ con đều không biết gì về sự an nguy của ông. Con trai của ông - Nguyễn Trường Thống Nhất nhớ lại: “Tôi là đứa con duy nhất biết bố bị bắt. Năm tôi học lớp 10, một hôm đến lớp, cậu bạn tôi là con một cán bộ cấp cao đến thì thào vào tai tôi, nói cậu ấy đã nghe lỏm được bố cậu ấy nói chuyện với các lãnh đạo khác và biết được thông tin bố tôi bị bắt. Ngày hôm đó tôi không học nổi nữa. Tôi về nhà vừa khóc vừa hỏi mẹ. Mẹ gật đầu xác nhận với tôi chuyện đó. Mẹ bảo: “Con đã biết rồi thì phải can đảm và giữ kín chuyện này. Hãy cùng ông bà và mẹ chờ đợi bố trở về”.

    Những ngày tháng 4/1975, Nguyễn Trường Thống Nhất học ở Liên Xô. Anh kể rằng, dù ở nước ngoài, nhưng anh và những lưu học sinh Việt Nam luôn cập nhật tin tức về tình hình chiến sự trong nước từng phút một. Một cái bản đồ Việt Nam rất to được trưng trong sân trường và sân ký túc. Cứ giải phóng đến đâu, cờ đỏ sao vàng lại được cắm đến đó.

    11h30 ngày 30/4, khi tin giải phóng miền Nam được lan đi, những sinh viên Việt ở Matxcova nghe tin báo độc lập loan trên đài đã ôm lấy nhau và òa khóc vì mừng rỡ. Ngày hôm đó không một sinh viên Việt Nam nào đi học. Họ tập trung diễu hành ngoài đường, cùng với những sinh viên nước ngoài khác để ăn mừng chiến thắng của dân tộc Việt Nam - chiến thắng mà cả thế giới mong chờ.

    Giữa niềm vui ngày độc lập, Nguyễn Trường Thống Nhất đã trở về phòng ký túc xá, nằm quay mặt vào tường và khóc suốt ngày hôm đó. Khi đó anh nghĩ đến hoàn cảnh gia đình mình, nghĩ đến việc cha anh đã có thể mãi mãi không được nhìn thấy ngày này và gia đình anh không bao giờ có cơ hội đoàn tụ.

    Nửa tháng sau đó, anh nhận được thư của ông nội - nhà văn Nguyễn Công Hoan gửi từ Việt Nam sang. Đọc xong lá thư đó, anh lại nằm quay mặt vào tường khóc suốt 1 ngày.

    Lá thư đó báo tin cho anh biết cha anh còn sống…

    “Ngay trước khi xe tăng Bắc Việt Nam tràn vào Sài Gòn, một quan chức cao cấp của CIA đã gợi ý với nhà chức trách Sài Gòn là tiện nhất là để y (tức Nguyễn Tài) biến mất. Bởi vì Tài là một tay khủng bố có kinh nghiệm, nên khó có thể mong đợi y là một kẻ chiến thắng rộng lượng. Người Nam Việt Nam đồng ý, Tài bị đưa lên một máy bay và ném xuống biển Nam Hải từ độ cao mười ngàn bộ. Đến đây thì ông ta đã trải qua hơn 4 năm bị biệt giam trong một phòng sơn trắng toát, và cũng chưa khi nào xác nhận một cách đầy đủ mình là ai cả” – Trong hồi ký của mình, cựu điệp viên CIA Frank Snepp, người từng trực tiếp tra hỏi Nguyễn Tài đã kể về ông như thế. Sau này, Frank Snepp vẫn đinh ninh Nguyễn Tài đã chết.

    Nhưng ngụy quyền Sài Gòn đã không dám và cũng không còn tâm trí đâu để làm cái việc đưa Nguyễn Tài lên máy bay và ném ông xuống biển Đông. Trực thăng của chúng còn bận dùng để di tản chúng khỏi miền Nam Việt Nam trước khi quân cách mạng tràn vào.

    Ngày 30/4/1975, Nguyễn Tài được bộ đội ta giải phóng khỏi nhà giam số 3 Bạch Đằng. Nghe tin ông còn sống, đích thân Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn đã vào đón ông về. Cái tin Nguyễn Tài còn sống được Bộ trưởng Bộ Công an báo về Hà Nội giữa một cuộc họp của Bộ. Vì quá vui mừng, anh em trong cuộc họp đã quyết định hủy cuộc họp đó để chia nhau đi báo tin vui cho gia đình Nguyễn Tài cùng với các cục trong Bộ.

    Ngày hôm đó, khi nghe tin con trai còn sống, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã đi từ căn nhà của mình sang căn nhà của cô con gái - nhà văn Lê Minh. Ông ôm lấy con gái và khóc mãi không thôi.

    Sau khi trở về, Đại tá Nguyễn Tài trở thành Thứ trưởng Bộ Công an. Năm 1977, do yêu cầu công tác ông chuyển sang làm Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan. Năm 2002, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Vợ ông đã hôn chiếc huân chương trên ngực ông mà nước mắt tuôn trào. Bởi bà biết ông đã phấn đấu cả đời, đã đấu tranh cả đời, mới có được danh hiệu cao quý đó…

    Lan Hương (thực hiện)


    Đồng chí Nguyễn Tài và vợ chụp ảnh kỷ niệm trước phòng giam ở số 3 đường Bạch Đằng.

    Vợ chồng Đại tá Nguyễn Tài chụp ảnh cùng 4 người con trước ngày ông lên đường đi B.

    Đồng chí Nguyễn Tài (thứ hai từ trái sang) trong lễ đón nhận Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
    Nguồn: Báo Công an nhân dân điện tử - 10:42 14/08/2015




    Tình Báo NGUYỄN TÀI, Con Nhà Văn NGUYỄN CÔNG HOAN – Điệp Viên Cộng Sản Được CIA Ca Ngợi Nhiều Nhất