Khánh thành chùa Xuân Cầu

Thursday, April 19, 2012
_ Cẩm Vân _
Sáng ngày 18 tháng 03 năm 2012 tại chùa Xuân Cầu – thôn Tam Kỳ - Phúc Thọ - Hưng Yên đã long trọng tổ chức lễ Khánh thành chùa Xuân Cầu.

Tham dự và chứng minh buổi lễ có
chư Tôn đức giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN);
HT. Thích Thanh Dũng – Thành viên HĐCM GHPGVN;
HT. Thích Thanh Nhiễu Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu (1952- nay) là một trong những lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam,[1] Ông hiện là Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trụ trì chùa Bái Đính (Ninh Bình).[2]

Thân thế
Sư thế danh là Vũ Đức Chính, sinh năm 1952 tại Nam Trực, Nam Định.[3] Năm 11 tuổi, sư xuất gia tu hành tại chùa Nhất Trụ (Ninh Bình) và thọ Đại giới vào năm 20 tuổi.

Hoạt động Đạo - Đời
Sau Hội nghị thống nhất các tông phái Phật giáo Việt Nam để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào năm 1981, Sư được cử làm nhân viên Văn phòng I Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Tham gia lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Từ năm 1987, Sư được Trung ương Giáo hội cử làm Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự kiêm Phó Văn phòng I. Trong giai đoạn 1997-2007, Sư đảm nhiệm chức Phó Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự kiêm Chánh Văn phòng I Trung ương Giáo hội.

Tại Đại hội VI của Giáo hội Phật giáo Việt Nam diễn ra tại thủ đô Hà Nội vào năm 2007, Sư được suy cử đảm nhiệm Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự.

Tại Hội nghị Thông qua việc giới thiệu Thượng tọa Thích Thanh Nhiễu đảm nhiệm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng trị sự, ngày 26 tháng 12 năm 2011 tại thành phố Hồ Chí Minh, Với 100% phiếu thuận, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã chính thức thông qua việc giới thiệu Thượng tọa Thích Thanh Nhiễu đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch Thường trực hội đồng trị sự thay thế Trưởng lão hòa thượng Thích Thanh Tứ - nguyên Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS đã viên tịch.[4]
– Phó chủ tịch thường trực HĐTS GHPGVN;
Nhị vị tôn đức Phó chủ tịch HĐTS GHPGVN
HT. Thích Thiện Nhơn
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn

HT.TS Thích Thiện Nhơn hiện là Phó Chủ tịch – Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự GHPGVN.

Trong các nhiệm kỳ trước, Hòa thượng từng đảm nhiệm các chức vụ:
Phó ban Trị sự - Chánh Thư ký Thành hội Phật giáo TP.HCM,
Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Phật học,
Phó ban Hoằng pháp TƯ và nhiều chức vụ quan trọng khác.

Hòa thượng là tác giả của vài chục tác phẩm Phật học có giá trị, vừa là nhà giáo dục - hoằng pháp vừa là nhà hành chính Phật giáo.

Theo Đạo Phật Ngày Nay
– Tổng thư ký HĐTS GHPGVN;
HT. Thích Bảo Nghiêm
Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm

TT.Thích Bảo Nghiêm thế danh Đặng Minh Châu Sinh ngày 27/12/1956 tại xã Vũ Lăng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Hiện là Phó chủ tịch HĐTS, Trưởng ban Hoằng Pháp TW.GHPGVN, Trụ trì chùa Lý Triều Quốc Sư - số 50 phố Lý Quốc Sư quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. www.chuabang.com

Sinh ra và lớn lên trong gia đình cách mạng, bố là Đảng viên, bác sỹ Bệnh viện tỉnh Thái Bình, mẹ là Y tá Bệnh viện Hữu Nghị Việt Nam Bungari tỉnh Thái Bình. Từ nhỏ sống, đi học văn hóa với bố mẹ ở xã Nhân Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Do nhà gần chùa nên sớm tối lui tới chùa lễ Phật và mến mộ đạo Phật. Năm 1971 xin phép cha mẹ xuất gia tu tại chùa Diên Phúc thôn Nam Hà, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.

+ Năm 1972, được tu học tại Trường tu học Phật Pháp Trung Ương. Năm 1981 – 1985 học tại trường cao cấp Phật Học Việt Nam khoá I ( nay là Học viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội- chùa Quán Sứ Hà Nội). Trong kỳ thi tốt nghiệp là một trong 6 vị tăng ni sinh xuất sắc đỗ loại ưu.
+ Tháng 2/1986 được Giáo hội bổ nhiệm công tác và lưu trú Tại văn phòng Thành Hội Phật Giáo Hà Nội ( chùa Bà Đá số 3 phố Nhà thờ Hà Nội.
+ Tháng 11/1987 tại Đại hội Phật Giáo Hà Nội lần thứ II được cử chánh Văn Phòng ban trị sự Thành Hội.
+ Tháng2/1989 được Ban giám hiệu mời làm giảng sư và Thư Ký trường Cơ bản Phật học Hà Nội.
+ Tháng 3/1992 Thành hội bổ nhiệm trụ trì Chùa Lý Triều Quốc Sư - số 50 phố Lý Quốc Sư Hà Nội.
+ Tháng 4/1992 Đại hội Thành hội Phật Giáo Hà Nội nhiệm kỳ III được cử giữ chức Chánh Thư Ký kiêm Chánh Văn Phòng Thành Hội Phật Giáo Hà Nội.
+ Tháng 2 năm 1992 được bổ nhiệm trụ trì chùa Lý Triều Quốc Sư tại số 50 đường Lý Quốc Sư, Hà Nội.
+ Tháng 11/1992 Đại hội Phật Giáo Việt Nam lần thứ III được cử thành viên Hội đồng trị sự Trung Ương, Chánh thư ký Ban hướng dẫn nam nữ Phật tử Trung Ương.
+ Năm 1993 Ban giám hiệu Trường Cao cấp Phật Học Việt Nam thỉnh mời làm giảng sư của Trường.
+ Năm 1994 Đại hội Mặt trận Tổ Quốc Thành phố Hà Nội được tham gia Uỷ Viên Uỷ ban khoá 12 và Uỷ vên Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc quận Hoàn Kiếm.
+ Năm 1994 tham gia Uỷ viên Uỷ ban Hoà bình Thành Phố Hà Nội.
+ Ngày 02.06.1996: Được bổ nhiệm trụ trì chùa Linh Tiên Tự hay còn gọi là Chùa Bằng A. tại Phường Hoằng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội.
+ Tháng 8/1997: Đại hội kỳ IV Thành hội Phật Giáo Hà Nội được tái cử Chánh thư ký kiêm Chánh Văn phòng Thành Hội.
+ Tháng 11/1997 Đại hội lần thứ IV GPGVN được suy cử trong Ban Thường trực kiêm Uỷ viên kiểm soát Hội đồng Trị sự GHPGVN, Phó ban Hoằng Pháp Trung ương, Phó thư ký Ban Giáo Dục Tăng Ni Trung ương. Tại Đại hội này đã được Giáo Hội tấn phong Giáo Phẩm Thượng Toạ.
+ Tháng 12/1997 Ban trị sự Thành Hội cử chức Phó hiệu trưởng kiêm Giáo Vụ Trường cơ bản Phật học Hà Nội.
+ Tháng 2/1999, được bổ nhiệm trụ trì Chùa Cảm Sơn tại Phường Đại Lài, TP Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
+ Tháng 8/1999 Đại hội Mặt trận Tổ Quốc Thành Phố Hà Nội chức lần thứ 13, được tái cử Uỷ viên Uỷ ban và là Uỷ viên UBMTTQ quận Hoàn Kiếm và phường Hàng Trống(đương nhiệm).
+ Giới đàn Phật Giáo Hà Nội được tổ chức hàng năm sau khoá hạ an cư, được thỉnh làm điển lễ và giới sư các giới đàn.
+ Năm 2001 là ủy viên hội bảo tồn di sản văn hóa Thăng Long Hà Nội.
+ Năm 2002: là Phó Ban thường trực Ban trị sự Thành hội Phật Giáo Hà Nội - nhiệm kỳ 5.
- Tại Đại Hội Đại biểu Phật Giáo toàn quốc của GHPG Việt Nam lần V, được cử làm Ủy viên Thư ký Hội Đồng trị sự GHPG Việt Nam nhiệm kỳ 2002 - 2007, kiêm Phó trưởng Ban Hoằng Pháp Trung Ương.
+ Năm 2004: Tái đắc cử Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội khóa 13 nhiệm kỳ 2004 - 2009 và tái đắc cử là ủy viên Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Thành Phố Hà Nội khoá 14 nhiệm kỳ 2004 - 2009.
+ Năm 2005: được cử làm Trưởng Ban đại diện Phật Giáo tỉnh Hà Tĩnh.
+ Năm 2006: vào Tháng 7, được mời làm Phó viện trưởng Học viện PG Việt Nam tại Hà Nội, phụ trách giáo dục đào tạo và công tác của sinh viên.
+ Năm 2007: là ủy viên Ban Chấp hành TW Hội Chữ Thập Đỏ khóa 8. Tại Đại Hội Đại Biểu Phật Giáo Tỉnh Hà Tĩnh lần I tổ chức vào Tháng 8, được suy cử làm Trưởng Ban Trị sự tỉnh Hà Tĩnh. Cũng trong Tháng 8, được suy cử làm Phó Chủ tịch Ủy Ban Hòa bình TP Hà Nội.
- Tháng 9: Tại Đại Hội VI của Thành Hội PGHN được suy cử là Phó trưởng Ban thường trực Hội Đồng Trị Sự Thành Hội PG Hà Nội nhiệm kỳ 2007 - 2012.
- Tháng 10: được cử làm Phó CT Ủy Ban Quốc Tế Phật Đản của Việt nam ( IOC).
- Tháng 12: tại Đại Hội VI của GHPG Việt Nam, được suy cử làm Phó Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự TW GHPG Việt nam kiêm Trưởng Ban Hoằng Pháp TW GHPG Việt Nam nhiệm kỳ 2007 - 2012.
+ Năm 2008: Vào trung tuần Tháng 2 năm 2008, Thủ tướng Chính Phủ cử làm Ủy viên Ban điều phối Đại Lễ Phật Đản LHQ tại Việt Nam kiêm Trưởng ban trang trí khánh tiết tại Đại Lễ.
Tháng 12, Tại Hội Nghị Hợp nhất Phật Giáo Hà Nội và Hà Tây được cử làm Trưởng Ban trị sự Thành Hội PG Hà Nội mới.
+ Năm 2009: vào tháng 4 là Trưởng phái đoàn Đại biểu của GHPG Việt Nam đi Hoằng Pháp tại các nước Châu Âu.
+ Từ năm 2000 đến nay, là Giới sư các Giới Đàn của Thành Hội PG Hà Nội tổ chức (mỗi năm một đàn). Kiêm Giới sư của các Giới đàn tỉnh Vĩnh Phúc, Tỉnh Hà Nam, Thanh Hóa. Là giảng sư Trường Trung cấp Phật Học Hà Nội, Hà Tây, Hải Dương, Nam Định khóa I, II. Là Giảng sư Học viện PG Việt Nam khóa 3 đến khóa 6.

+ Từ năm 1988 đến năm 1992: là giáo viên giảng dạy Phật Pháp tại Trường Đại học Văn Hóa Hà Nội. Cũng là vị tu sỹ đầu tiên làm giảng viên dạy Phật Pháp tại trường Quốc gia hệ Đại học.

- Các phần thưởng, bằng khen trong quá trình làm công tác Phật sự và Hoằng Pháp:
- được nhiều bằng tuyên dương công đức của GHPG Việt Nam
- 2 Bằng khen của Thủ Tướng Chính Phủ: trong đó
1 kỷ niệm chương của UB Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
1 cúp vàng Vì Sự Phát Triển của Cộng Đồng.(Năm 2010)
- 01 Bằng khen của Hội Đồng Nhân Dân TP Hà Nội
- 04 Bằng khen của Chủ tịch UB Nhân Dân TP Hà Nội và Bằng khen của UB MT Tổ Quốc TP Hà Nội.
- 01 huy chương Vì Hòa Bình Hữu Nghị giữa các Dân Tộc của Đoàn Chủ Tịch Liên Hiệp các tổ chức Hữu Nghị Việt Nam tặng.

Trong quá trình công tác, chúng tôi luôn hoàn thành nhiệm vụ với trách nhiệm của một tu sĩ Phật Giáo, hoạt động theo phương châm của Giáo Hội “Đạo pháp dân tộc, Chủ nghĩa xã hội”.

Theo Đại Đức Giảng sư
– Trưởng Ban hoằng pháp TW;
HT. Thích Gia Quang – Phó tổng thư ký HĐTS GHPGVN
cùng Tăng Ni BTS Tỉnh hội Phật giáo Hưng Yên và đông đảo tín đồ Phật tử.

Tới dự có Trung tướng Tô Lâm – Thứ trưởng Bộ công an
cùng các vị lãnh đạo đại diện các cơ quan ban ngành Trung ương và địa phương cùng về tham dự.

Sau nghi lễ niệm hồng danh đức Bản sư, ĐĐ. Thích Thanh Quang tuyên bố lý do giới thiệu thành phần tham dự.

Tại buổi lễ ông Lê Minh Đức – thay mặt UBND xã Nghĩa Trụ đọc diễn văn khai mạc:

Được biết chùa Xuân Cầu có lịch sử từ lâu đời, năm 1954 đã bị chiến tranh phá hủy, nhân dân không còn nơi thờ cúng, từ năm 2010 chùa xây dựng lại ngôi Tam bảo, nhà Tổ, nhà mẫu khang trang, tôn nghiêm.


Tổng kinh phí xây dựng chùa hơn 8 tỷ đồng. Chùa được hoàn thiện trong 3 năm, đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng dân dân tại địa phương.

Làng Xuân Cầu là quê hương của các nhà cách mạng, Tô Hiệu, Tô Chấn, Lê Văn Lương, Lê Giản (Tô Dĩ)… quê hương của nhà văn Nguyễn Công Hoan, họa sỹ nổi tiếng Tô Ngọc Vân…. Phát huy truyền thống yêu nước, nhân dân làng Xuân Cầu luôn đoàn kết hòa hợp, chấp hành tốt luật pháp, thực hiện nếp sống văn hóa mới.

Tại buổi lễ, Sư cô Thích Đàm Lương – Trụ trì chùa Xuân Cầu phát biểu bày tỏ sự tri ân đối với các cơ quan đoàn thể, các cấp lãnh đạo, nhà hảo tâm và các quý vị Phật tử đã phát tâm công đức xây dựng chùa cảnh được khang trang để trở thành trung tâm văn hóa tín ngưỡng cho nhân dân địa phương. Cũng trong dịp này Sư cô đã vinh dự đón nhận những lẵng hoa và phẩm vật của chư tôn đức Giáo phẩm cùng các vị lãnh đạo đại diện các cơ quan ban ngành trao tặng.

Cuối buổi lễ HT. Thích Thiện Nhơn
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn

HT.TS Thích Thiện Nhơn hiện là Phó Chủ tịch – Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự GHPGVN.

Trong các nhiệm kỳ trước, Hòa thượng từng đảm nhiệm các chức vụ:
Phó ban Trị sự - Chánh Thư ký Thành hội Phật giáo TP.HCM,
Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Phật học,
Phó ban Hoằng pháp TƯ và nhiều chức vụ quan trọng khác.

Hòa thượng là tác giả của vài chục tác phẩm Phật học có giá trị, vừa là nhà giáo dục - hoằng pháp vừa là nhà hành chính Phật giáo.

Theo Đạo Phật Ngày Nay
ban đạo từ, chúc mừng ngày khánh thành chùa Xuân Cầu, Hòa thượng đã động viên phật tử và nhân dân địa phương thực hiện tốt phương châm Đạo pháp – Dân tộc góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.


 ❧ ❀ ❧ 

Lệ làng - HOA CẦU XÃ HƯƠNG LỆ - 花球社 鄉例

Sunday, April 15, 2012

Tục ngữ: "Phép Vua Thua Lệ Làng"
Thông thường, lí do lập hương ước bao giờ cũng có đoạn “Nước có luật, làng có lệ”, cụ thể trong hương ước xã Xuân Cầu (Hưng Yên) có quy định:
“Một làng cũng như một nước, cần phải có thể lệ chung để mọi người tuân theo thời mới có trật tự, mới yên ổn, dân làng mới trở nên thịnh vượng được. Làng ta đây tuy trước vẫn có khoán lệ, nhưng so với cái trình độ tiến hóa của dân ngày nay thì có nhiều điều khuyết điểm, bởi vậy nay dân làng cùng hội họp tại đình cùng bàn bạc mà sửa đổi lại, châm chước các lệ bất tiện thủa trước mà lập ra tập khoán lệ này”[4].

Sách tục lệ trong kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm

1388.
HOA CẦU XÃ HƯƠNG LỆ
花球社 鄉例

Soạn năm Lê Cảnh Hưng 36 (1775).
1 bản viết, 60 trang, 30x20.

A. 724.
  1. Quy ước về từ chỉ tiên hiền và hội tư văn của. Hoa Cầu, h. Văn Giang. 8 bài văn tế thần, tế tiên hiền.
  2. Quy ước của th. Tam Kì, x. Hoa Cầu về các việc quan, hôn nhân, tang lễ, tế tự, khao vọng, ăn uống...

Xem:

  1. Bản Hán Nôm - Flipbook
  2. Bản Hán Nôm - photocopy



Sưu tầm và giới thiệu: Nguyễn Hoàng Uyên

Hà Nội, tháng 4 năm 2012.

Cảm nhận một chuyến đi

Thursday, April 12, 2012
_ Trần Thị Bích HằngThs, Phó Hiệu trưởng Trường. _

Vào những ngày đầu xuân Nhâm Thìn, trong không khí vui xuân của những đoàn xe đi trẩy hội, đi du xuân, xe của đoàn cán bộ Trường Chính trị Tô Hiệu cũng khởi hành trong sự rộn rã. Nhưng xe của chúng tôi không đi lễ chùa, trẩy hội mà về xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên để dự Lễ Kỷ niệm 100 năm năm sinh (1912 - 2012) người chiến sĩ cách mạng kiên trung, một tấm gương cộng sản kiên cường, một người luôn chăm lo đến công tác đào tạo cán bộ, đã cống hiến trọn tuổi thanh xuân của mình cho cách mạng trong những thập niên đầu của thế kỷ XX - Liệt sĩ Tô Hiệu.

Vượt qua gần 100 km đường 5, xe vòng vào con đường nhỏ, đưa chúng tôi về với quê hương đồng chí. Ngay ở đầu thôn chúng tôi đã thấy nhân dân, trong trang phục chỉnh tề vẫy tay chào đón xe chúng tôi. Những lời hỏi thăm thân tình, ấm áp của bà con, những cái bắt tay rất chặt của các đồng chí công an làm nhiệm vụ dẫn đường, của cán bộ lãnh đạo địa phương, và đặc biệt là những cử chỉ nồng hậu, chân tình của thân nhân liệt sĩ Tô Hiệu, đã coi chúng tôi như những người thân, những người con của quê hương trở về, thắp nén tâm nhang cho người anh liệt sĩ của mình. Đoàn chúng tôi ai cũng nghẹn ngào, xúc động ! Có những giọt nước mắt đã rơi!

Trong khói hương trầm nghi ngút, linh thiêng, sau phần lễ dâng hương, chúng tôi được nghe đồng chí Phó Bí thư Thường trực tỉnh ủy Hưng Yên, đồng chí Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương giới thiệu tóm tắt thân thế, sự nghiệp và những cống hiến lớn lao của đồng chí Tô Hiệu đối với sự nghiệp cách mạng trong những năm 30 - 40 của thế kỷ XX, một giai đoạn cách mạng đầy chông gai thử thách, thử thách lòng kiên trung của mỗi con người trước vận mệnh của đất nước.

Điều đặc biệt và cũng là điều làm cho chúng tôi vô cùng xúc động là được nghe bác Nguyến Văn Trân, nguyên Bí thư Trung ương đảng, nguyên bí thư chi bộ nhà tù Sơn la, người đồng chí, người bạn tù của đồng chí Tô Hiệu kể chuyện về cuộc sống của những người tù chính trị tại nhà tù Sơn La. Bác Trân nay đã 97 tuổi, ở cái tuổi xưa nay hiếm, nhưng trí tuệ vẫn minh mẫn, giọng nói ấm, trầm, đầy truyền cảm. Sau ít phút nghẹn ngào ban đầu, càng nói, càng kể lại những câu chuyện về đồng chí Tô Hiệu giọng bác càng hào sảng, khúc triết, rõ ràng. Dường như ý chí của người chiến sĩ cách mạng năm xưa đang truyền thêm sức mạnh cho bác. Tuần tự từng việc làm một, từng ký ức lại dội về, bác đã đưa mọi người trở về quá khứ, trở về cuộc sống nhà tù, mà ở đó có một người, tuổi đời còn rất trẻ, bị tra tấn dã man, đói rét, bệnh tật hành hạ không hề nản chí, sờn lòng, đã trở thành tấm gương hoạt động tiêu biểu của những chiến sĩ cộng sản kiên trung, sống chết vì lý tưởng cách mạng - liệt sĩ Tô Hiệu.

Nói về đồng chí Tô Hiệu, một người cộng sản kiên trung, người mà cả cuộc đời đã dâng hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc thì không bao giờ hết. Tấm gương chiến đấu cho lý tưởng cách mạng của đồng chí Tô Hiệu đã được nhiều sách báo đề cập đến. Song tại buổi lễ trang trọng và ấm tình đồng chí này, qu lời kể của Bác Nguyễn Văn Trân kể về đồng chí Tô Hiệu, chúng tôi càng cảm nhận sâu sắc hơn về một đồng chí Tô Hiệu với những đóng góp cho phong trào cách mạng, cho công tác xây dựng Đảng và những hoạt động lãnh đạo của đồng chí trong thời gian bị giam cầm ở nhà tù Sơn La. Những lời kể đầy xúc động của bác Trân như tạc nên chân dung một con người, một con người không chỉ kiên trung với lý tưởng, toàn tâm toàn ý phụng sự sự nghiệp cách mạng của Đảng mà Tô Hiệu còn là nhà lãnh đạo cách mạng đầy sáng tạo, người có nhiều đóng góp cho sự nghiệp đào tạo bồi dưỡng cán bộ trong thời kỳ đầu của cách mạng.

Sau khủng bố của thực dân Pháp những năm 1930 – 1931, các cơ sở đảng nhiều nơi không còn giữ được, phong trào quần chúng bị đổ vỡ hết. Rồi đến thời kỳ 1936- 1939, khi ở Côn Đảo về, mặc dù sức khỏe còn rất yếu, song Tô Hiệu cùng với một số đồng chí khác bắt tay ngay vào xây dựng lại Xứ ủy Bắc Kỳ. Các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Văn Linh, Tô Noong (người Cao Bằng), Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt đã cùng nhau tập hợp lại để củng cố, xây dựng lại Xứ Ủy Bắc Kỳ và từ Xứ ủy Bắc Kỳ tổ chức lại tỉnh ủy các nơi. Trong hoạt động này, đồng chí Tô Hiệu là nòng cốt, là người năng động, có nhiều đóng góp lớn. Từ những bài học về công tác xây dựng Đảng mà đồng chí được dạy trong nhà tù Côn Đảo, Tô Hiệu đã nhận thức sâu sắc về vai trò của cán bộ. Vì thế trong khi sắp xếp, kiện toàn lại tổ chức quần chúng, cũng là lúc Tô Hiệu tiến hành đào tạo cán bộ (Bác Trân kể, tôi cũng là 1 trong những cán bộ được đồng chí Tô Hiệu đào tạo trong phong trào Mặt trận Bình dân).

Theo đồng chí Tô Hiệu, muốn xây dựng Đảng thì trước hết phải có cán bộ. Cán bộ tốt không phải tự nhiên mà có, mà phải được đào tạo, bồi dưỡng. Cho nên đồng chí Tô Hiệu đã tìm mọi cách để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng (gồm những người hăng hái, những thanh niên, những công nhân, nông dân, trí thức … nếu họ có cùng chí hướng) đều được theo học. Nếu không đào tạo (hiểu theo nghĩa giác ngộ con đường đấu tranh cách mạng) thì các hoạt động của họ chỉ mang tính tự phát, và vì vậy, phong trào khó mà có thể phát triển được.

Để phong trào cách mạng mạnh, cần phải có sự tham gia của đông đảo người dân, vì thế, đối tượng đi học, theo Tô Hiệu không phân biệt họ là ai, thuộc thành phần nào, dân tộc nào mà bao gồm tất cả những người có cùng chí hướng. Với nhận thức như vậy, nên sau khi bị quân Pháp bắt lại, và giam ở nhà tù Sơn La, Tô Hiệu cùng với một số đồng chí khác đã biến nhà tù thành trường học cộng sản, thành nơi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Vào nhà tù Sơn La, việc đầu tiên, theo đồng chí Tô Hiệu là phải có chủ trương đối phó với bọn cai ngục (đặc biệt là đối đầu với tên công xứ mật thám người Pháp Dăng cut-xô khét tiếng, được thực dân Pháp đưa lên để khủng bố người dân ở đây). Để đối phó với bọn tay sai phản động, bọn cai ngục, Tô Hiệu đã có nhiều chủ trương sáng tạo, tùy tình hình để có lúc cương quyết lúc lại mềm mỏng, đạt hiệu quả cho mỗi cuộc đấu tranh.

Vào nhà tù trong số gần 300 tù nhân, với nhiều thành phần khác nhau: Cộng sản có; Quốc dân đảng có; một số anh em Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội; một số anh em hoạt động từ trước, chưa mãn hạn tù, vẫn trong thời gian ở trại tập trung; một số thành phần thân Nhật và đặc biệt có cả Phạm Công Tắc - Giáo chủ Cao Đài.

Vì vậy quan hệ giữa những người tù phức tạp lắm, làm sao để đoàn kết họ lại, để cùng tranh đấu chống đế quốc? Trong khi đó, cũng tại nhà tù Sơn La, bài học những năm 30- 35 của những người tù cho thấy, trong tù vừa có Cộng sản, vừa có Quốc dân đảng, nhưng vì luôn mâu thuẫn, đấu tranh không thống nhất được với nhau, cho nên tình hình đời sống của anh em trong tù hết sức khó khăn, và việc chống lại chế độ cầm quyền không thành công. Kết quả là trong số hơn 150 tù chính trị thì có tới 50 người bị chết do không đoàn kết, nên không bảo vệ được nhau. Nhưng sau này, từ năm 40- 45, trong số hơn 250 tù nhân chỉ chết có 7 người, vì dưới sự lãnh đạo của chi bộ nhà tù, trong đó đồng chí Tô Hiệu là linh hồn, đã có nhiều chủ trương đoàn kết họ lại để cùng:

Một là đấu tranh đòi lại quyền lợi cho tù nhân: đòi bỏ chế độ nhà thầu cung cấp thức ăn để buộc họ phải giao lại nhà bếp cho chính những người tù tự làm, đảm bảo chế độ ăn, vì thực tế cho thấy chế độ nhà thầu thức ăn đã tạo điều kiện để cai tù bớt xén khẩu phần, cho tù nhân ăn không đủ chất dinh dưỡng tối thiểu, điều đó ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của anh em.

Hai là đấu tranh đòi hưởng chế độ thông tin, đòi được đặt mua, cung cấp sách, báo ... để cải thiện đời sống tinh thần

Ba là đấu tranh đòi được cải thiện đời sống bằng chính công lao động của người tù: đòi được tự tăng gia trồng rau, nuôi lợn…và chính nhờ hoạt động lao động ngoài trời mà những người tù được giao lưu với nhau, và thông qua đó nâng cao được sức khỏe, giảm được bệnh tật, có điều kiện để thông tin với nhau về các chủ trương của chi bộ, thông tin về tình hình bên ngoài do một số anh em được cung cấp.

Một điều đặc biệt (theo bác Trân kể) là Tô Hiệu nói, chúng ta ở tù nhưng phải nghĩ đến sau này khi mãn hạn tù được trở về phải tiếp tục hoạt động, vì vậy, ngay từ bây giờ, trong điều kiện nhà tù, phải tiến hành đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Với suy nghĩ đó, đồng chí Tô Hiệu đã tổ chức các lớp học chính trị, học văn hóa (người biết chữ dạy người không biết chữ, người biết nhiều dạy người biết ít; không chỉ dạy tiếng Việt mà còn dạy tiếng Pháp, tiếng Trung..), khác với nhà tù khác, ở đây còn dạy, còn huấn luyện quân sự. Một điều nghe như xa vời nhưng đó lại là hiện thực, điều không thể lại trở thành có thể. Bác Trân kể lại, trong những lần đi lao động khổ sai, 4 tù nhân có 1 lính dõng đi coi tù, anh em đã thuyết phục người lính dõng cho mượn súng để tập luyện quân sự, cứ thế, các đợt lao động khổ sai trở thành lớp huấn luyện quân sự. Phải chăng tấm gương kiên trung của những người tù cộng sản đã cảm hóa được người lính dõng, phải chăng trong dòng máu của những con người có thể do hoàn cảnh đã buộc họ phải đứng bên kia chiến tuyến vẫn còn le lói dòng máu Lạc Hồng, nên khi được tiếp xúc với những người tù cộng sản, cảm phục trước sự chịu đựng vô song, một nghị lực sống phi thường, họ đã không ngần ngại trao súng, bất chấp sự trừng phạt đang chờ đợi họ, nếu việc làm trên bị phát hiện. Cứ như vậy, tối đến, đêm về, các trại tù đã trở thành nơi học tập, trại này học văn hóa, trại kia học chính trị, trại kia ôn tập lại những điều mới tiếp thu được từ khâu tháo lắp súng, các yếu lĩnh bắn súng…vv. Trong các lớp học thì lớp học chính trị thu hút đông đảo người tham gia nhất. Một số anh em tù nhân có điều kiện nhận được các tài liệu bí mật từ bên ngoài gửi vào, đã biên tập thành tài liệu tuyên truyền của Việt Minh, số ít anh em đã viết được tài liệu gửi ra bên ngoài để tuyên truyền giác ngộ quần chúng. Các lớp Nông vận, Công vận, Binh vận , Thanh vận và công tác hoạt động bí mật... cũng được triển khai. Dẫu sao, trong chốn tù đầy, những người Cộng sản, mà đặc biệt là Tô Hiệu, đã tranh thủ mọi thời cơ, mọi điều kiện, để biến nhà tù thành trường học, học ngay những điều mà kẻ thù không thể ngờ được. Chính từ những nội dung đào tạo, bồi dưỡng đó mà các anh em sau này khi được thả tự do, với những kiến thức tiếp thu được trong tù đã vươn lên, chủ động sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành tốt các nhiệm vụ, và trở thành những cán bộ lãnh đạo xuất sắc, giữ những cương vị quan trọng của Đảng và Nhà nước.

Chính những chủ trương, những hoạt động lao động, học tập trong nhà tù, những phong trào đấu tranh đòi quyền lợi, những người tù đã quên đi sự khác biệt về thành phần, trình độ văn hóa, nhận thức... trở thành một khối thống nhất dưới sự lãnh đạo của chi bộ đảng, mà Tô Hiệu là linh hồn, cùng chung một chí hướng chống lại đế quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho đất nước.

Sau hơn hai tiếng đồng hồ, mọi người hình như không ai chú ý đến thời gian, vẫn chăm chú nghe từng lời bác Trân kể để được ôn, được nhớ lại cuộc đời hoạt động của người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Mặc dù trời vẫn còn lạnh nhưng chúng tôi ai cũng thấy ấm lòng, bởi những cảm xúc của bác khi kể về người bạn tù, người anh, người đồng chí đã truyền thêm sức mạnh cộng sản, truyền nghị lực sống cho mỗi chúng tôi. Quên đi tuổi tác, quên đi thời gian, bác như thầm nhủ, chúng ta, những người Cộng sản ngày nay hãy sống cho Tô Hiệu, học và làm theo tấm gương người chiến sĩ cộng sản kiên cường.

Chia tay với buổi Lễ kỷ niệm trở về, đoàn cán bộ Trường Chính trị Tô Hiệu Hải Phòng không chỉ mang trong lòng những tình cảm thân thương của bà con và lãnh đạo xã Nghĩa Trụ, sự chân tình nồng hậu của dòng tộc họ Tô, mà quan trọng hơn cả là mọi người ai cũng mang trong lòng những trăn trở của bản thân: Trong hoàn cảnh tù đầy, ốm đau bệnh tật, bị sự kiểm soát gắt gao của kẻ thù, thiếu thốn trăm bề…mà những người cộng sản đã luôn vượt lên, sáng tạo, khôn khéo trong cách làm, luôn chăm lo đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho cách mạng…hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong hoàn cảnh khó khăn nhất.

Thiết nghĩ, với nhà trường mà nhiệm vụ, trọng trách chính được giao là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho thành phố và hơn nữa là Trường lại được vinh dự mang tên đồng chí Tô Hiệu, vậy học tập Tô Hiệu không chỉ ở tấm gương chiến đấu kiên trung của người Cộng sản mà là học tập sự sáng tạo, học tập tinh thần vượt khó vươn lên. Mỗi cán bộ, giảng viên cần sáng tạo trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và đồng thời cũng luôn tự trau dồi, bồi dưỡng, cập nhật những kiến thức mới, đặng góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố tin tưởng giao cho trường./.

Nội san Số 1/2012


Ths, Phó Hiệu trưởng Trường

Lê Văn Lương - người cộng sản mẫu mực, trọn đời vì sự nghiệp cách mạng của Đảng

Thursday, March 29, 2012


Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà cách mạng Lê Văn Lương (28/3/1912 - 28/3/2012)

_ Đoàn Phạm Hà Trang _
TCCSĐT - Là thế hệ lớp đầu của Đảng ta, một cán bộ lãnh đạo giàu kinh nghiệm, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Văn Lương nêu cao tấm gương trong sáng của một người cộng sản kiên trung, tận tụy, liêm chính, khiêm nhường…; một mẫu mực về tự phê bình, về nếp sống đặc biệt trong sáng, giản dị và khoan dung. Đồng chí đã trọn một đời với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng.




Những năm tháng trên con đường cách mạng

Làng Xuân Cầu, xứ Đông từng đi vào ca dao: "Ai về Đồng Tỉnh, Hoa Cầu / Để thương, để nhớ, để sầu cho ai...", là quê hương đồng chí Lê Văn Lương, thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Tên thật là Nguyễn Công Miều, tên quen thuộc ở nhà tù Côn Đảo là Phạm Văn Khương, đồng chí Lê Văn Lương sinh ngày 28 tháng 3 năm 1912, trong một gia đình nho học, nhiều đời thi thư, khoa bảng yêu nước. Khi còn là cậu học trò trường Bưởi, Hà Nội, Lê Văn Lương đã cùng các đồng chí Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ tham gia các phong trào bãi khóa, để tang Phan Châu Trinh (năm 1926). Năm 15 tuổi, đồng chí gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (năm 1927). Tháng 6 năm 1929, đồng chí tham gia nhóm Đông Dương Cộng sản Đảng - một trong ba tổ chức cộng sản ở nước ta lúc đó, và đến khi thống nhất tổ chức thành một đảng duy nhất, đồng chí trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tháng 8 năm 1929, đồng chí được cử vào Sài Gòn hoạt động để gây dựng cơ sở cách mạng. Tháng 3-1931, khi đang tích cực hoạt động trong phong trào công nhân thì bị thực dân Pháp bắt giam ở Khám Lớn Sài Gòn. Tháng 5-1933, đồng chí bị kết án tử hình trong vụ án Đảng Cộng sản Đông Dương cùng với 7 người khác. Do sự vận động và đấu tranh của nhân dân ta, đặc biệt là của các nghị sĩ tiến bộ Pháp, đòi bỏ án tử hình và trả tự do cho tù chính trị ở Đông Dương, đồng chí được giảm xuống án chung thân khổ sai cùng các đồng chí Phạm Hùng, Lê Quang Sung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Chí Diểu và bị đày ra Côn Đảo ít ngày sau khi kết thúc phiên tòa (14-5-1933). Trong tù, cùng với Ngô Gia Tự, Phạm Hùng, Lê Văn Lương được bổ sung vào cấp ủy của tổ chức Đảng nhà tù, tiếp tục lãnh đạo đấu tranh chống lại chế độ hà khắc ở nơi địa ngục trần gian này.

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 23-9-1945, Lê Văn Lương cùng 2.000 tù được Chính phủ đón về Nam Bộ khi cách mạng đang bước vào giai đoạn mới. Ngay lập tức, đồng chí được phân công vào đội ngũ lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ. Tháng 10 năm 1945, đồng chí được cử làm Ủy viên dự khuyết Xứ ủy Nam Bộ và được Trung ương điều ra Bắc, giúp Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ đạo Báo Sự thật, Nhà xuất bản Sự thật và tham gia một số công việc khác vào tháng 01 năm 1946. Đầu năm 1947, đồng chí được cử làm Bí thư Văn phòng Thường vụ Trung ương Đảng, cuối năm 1948 được chỉ định làm Trưởng Ban Đảng vụ.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951), đồng chí Lê Văn Lương được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, được phân công làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương và chỉ đạo Văn phòng Trung ương. Từ giữa năm 1953, Trung ương Đảng quyết định thành lập Ban Cải cách ruộng đất Trung ương do đồng chí Trường Chinh làm Trưởng ban, đồng chí Lê Văn Lương được phân công tham gia Ban lãnh đạo Cải cách ruộng đất.

Hòa bình lập lại, năm 1954, đồng chí được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 11 năm 1956, được chỉ định làm Bí thư Khu ủy Tả ngạn, tháng 8 năm 1957, được điều về làm Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương. Đầu năm 1959, đồng chí được cử giữ chức Chánh Văn phòng Trung ương Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960), đồng chí Lê Văn Lương được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Ban Bí thư. Năm 1973, đồng chí được phân công kiêm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng.

Tháng 12 năm 1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, được phân công tham gia Thành ủy Hà Nội và được bầu làm Bí thư Thành ủy Hà Nội.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982), đồng chí Lê Văn Lương được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, tiếp tục làm Bí thư Thành ủy Hà Nội. Cuối năm 1986, do tuổi cao sức yếu, đồng chí không tham gia Ban Chấp hành Trung ương, thôi giữ chức Bí thư Thành ủy Hà Nội. Trong thời gian này, đồng chí vẫn được Bộ Chính trị phân công tham gia tổng kết công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ. Đồng chí là đại biểu Quốc hội các khóa VI và VII.

Ngày 25 tháng 4 năm 1995, đồng chí Lê Văn Lương đã đi vào cõi vĩnh hằng để lại trong lòng đồng chí, đồng bào niềm tiếc thương vô hạn.

Là đảng viên cộng sản thuộc thế hệ đầu tiên tham gia sáng lập Đảng, liên tục được Đảng cử làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương các khóa II, III, IV, V, với gần 70 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí Lê Văn Lương thể hiện tấm gương của một chiến sĩ cộng sản mẫu mực, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn trung thành, tận tụy với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Dù ở bất cứ cương vị công tác nào, đồng chí đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đồng chí là một cán bộ có ý thức tổ chức kỷ luật rất cao, sống trung thực, giản dị, hòa nhã với mọi người, luôn tôn trọng và lắng nghe ý kiến của đồng chí, của nhân dân.

Với những hoạt động và cống hiến đối với Đảng, cách mạng và dân tộc, đồng chí Lê Văn Lương đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác.


Vượt lên gian khổ, hoạt động sôi nổi, cống hiến to lớn cho độc lập của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân

Với tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng, ngay từ những năm đang học ở trường Bưởi, cùng với người bạn học Nguyễn Văn Cừ, Lê Văn Lương được Ngô Gia Tự giác ngộ cách mạng. Từ khi tham gia Hội Việt nam Cách mạng Thanh niên, càng thêm cơ hội để Lê Văn Lương đem nhiệt huyết của tuổi trẻ đấu tranh chống áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến; rèn luyện và trưởng thành. 17 tuổi, đồng chí đã là một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng, hăm hở lao vào cuộc đấu tranh, xây dựng lực lượng, giác ngộ quần chúng, nhen nhóm phong trào cách mạng.

Thực hiện chủ trương "vô sản hóa" của Đảng, đồng chí Lê Văn Lương cùng với Ngô Gia Tự vào Sài Gòn hoạt động trong phong trào công nhân, trực tiếp lao động tại Hãng dầu Socony Nhà Bè. Ngày 23-3-1931, Lê Văn Lương trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh của hơn 400 công nhân Hãng dầu Socony. Sau khi bị mật thám bắt, Lê Văn Lương cùng các đồng chí Phạm Hùng, Lý Tự Trọng, Lê Quang Sung đều bị kết án tử hình... Lúc ấy, đồng chí mới 18 tuổi. Với bản lĩnh và khí phách của người cộng sản chân chính, các đồng chí đã chuẩn bị sẵn tinh thần để hiên ngang lên máy chém…

Do những tác động tích cực của cách mạng thế giới, nhờ nỗ lực đấu tranh của Đảng Cộng sản Pháp, các đồng chí đảng viên và nhiều nhân sĩ, trí thức có tên tuổi trong Ủy ban đấu tranh đòi ân xá chính trị phạm ở Đông Dương, thực dân Pháp buộc phải giảm án xuống chung thân khổ sai, đày Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Lý Tự Trọng, Lê Quang Sung ra Côn Đảo. Suốt 15 năm lao tù, trong đó có 11 năm tại Côn Đảo, nơi địa ngục trần gian do thực dân đặt ra để đày đọa những người chống đối chúng, đồng chí Lê Văn Lương luôn giữ vững khí tiết cách mạng, phẩm chất cộng sản. Với tinh thần “biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”, Lê Văn Lương đã cùng với các đồng chí của mình thành lập Chi bộ cộng sản ngay trong cái “địa ngục trần gian” ấy. Chi bộ nhà tù đã xác định rõ nhiệm vụ của mình: Lãnh đạo tương tế; lãnh đạo đấu tranh; Lãnh đạo học tập và tự học tập, đào tạo cán bộ cho Đảng; Tổ chức vượt ngục; Tổng kết kinh nghiệm đấu tranh, biên soạn và dịch thuật tài liệu gửi về cho tổ chức Đảng ở đất liền. Cũng tại đây, đồng chí được Chi bộ cử vào Ban lãnh đạo nhà tù Côn Đảo, tổ chức, lãnh đạo đảng viên trong tù đoàn kết đấu tranh chống lại chế độ lao động khổ sai, chế độ ăn uống đói khát hằng ngày. Là người say mê hoạt động, ngày phải đi làm khổ sai, tối đến, đồng chí Lê Văn Lương vẫn miệt mài viết bài chỉ đạo phong trào đăng trên báo “Tiến lên”- tờ báo bí mật của Hội tù nhân, hướng dẫn đấu tranh trong tù và tập san “Ý kiến chung” - tập san nghiên cứu lý luận trong tù. Khi đồng chí Trần Văn Giàu bị đày ra Côn đảo (tháng 7 năm 1935), đồng chí Lê Văn Lương cùng đồng chí Phạm Hùng giao cho Trần Văn Giàu mở lớp dạy lý luận trong tù. Bản thân đồng chí Lê Văn Lương cũng là một học viên chăm chỉ của lớp. Tấm gương của đồng chí Lê Văn Lương có ảnh hưởng tích cực đến những người tù ở toàn đảo, đến phong trào cách mạng ở trong nước qua những đồng chí được trả lại tự do hay hết hạn tù. Những hoạt động tích cực của Chi bộ nhà tù và đồng chí Lê Văn Lương đã góp phần đào tạo, rèn luyện được một thế hệ cán bộ của Đảng dày dạn kinh nghiệm, nhiều người có lý luận chỉ đạo phong trào cách mạng không chỉ trong tù mà còn trên phạm vi cả nước sau này.



Đồng chí Lê Văn Lương thuộc thế hệ lãnh đạo đầu tiên của ngành tổ chức Trung ương Đảng và có những năm tháng chăm lo “công việc gốc” này của Đảng. Đồng chí Hoàng Tùng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng đã có nhận xét: “Lê Văn Lương là một đồng chí được đánh giá và sử dụng đúng năng lực”[1][1] Lê Văn Lương trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.103. Là một nhà lãnh đạo nòng cốt, Lê Văn Lương có công trong nhiều mặt của công tác Đảng, có tác phong làm việc nghiêm túc, cẩn trọng, công bằng. Trải qua nhiều chức vụ của Đảng và Nhà nước, dù ở cương vị nào đồng chí đều thể hiện sự thận trọng, khéo léo trong xử lý công việc, nhưng kiên định về nguyên tắc Đảng.

Năm 1948, khi được bầu bổ sung làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được chỉ định làm Chánh Văn phòng Trung ương, đồng chí là người làm việc bên cạnh Bác Hồ và Thường vụ Trung ương, cùng với đồng chí Trường Chinh giải quyết công việc hằng ngày của Đảng. Khi các ban xây dựng Đảng lần lượt ra đời: Đảng vụ (Tổ chức), Kiểm tra, Dân vận, Tài chính, với cương vị Chánh Văn phòng, đồng chí đã chủ động sắp xếp, giúp Trung ương bảo đảm sự vận hành có hiệu quả công việc của Đảng, giữ mối liên hệ giữa Trung ương và các khu ủy, tỉnh ủy. Trong thời gian làm Trưởng Ban Đảng vụ (từ 1948 – 1950), đồng chí đã giúp Trung ương Đảng tiến hành công tác chỉnh đốn tổ chức, mở nhiều cuộc vận động chỉnh đốn tổ chức phối hợp với cuộc vận động cải cách ruộng đất nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng đảng viên và tổ chức Đảng; soạn thảo Điều lệ Đảng mới, làm quy trình nhân sự, lập danh sách những người ứng cử vào Ban Chấp hành Trung ương, Ban Bí thư, Bộ Chính trị… góp phần vào công tác chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II thành công.

Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, đồng chí Lê Văn Lương đã viết bài với chủ đề “Học tập Nghị quyết Đại hội Đảng như thế nào”. Thay mặt Đảng, đồng chí chỉ rõ mục đích của việc học Nghị quyết là: “làm cho mỗi đảng viên tăng gia tinh thần trách nhiệm, tăng gia ý thức phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân”. Sau đó (ngày 26-7-1951), đồng chí viết bài: “Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng”, nêu rõ vai trò quan trọng của công tác tư tưởng trong công tác xây dựng Đảng; nêu cao ý thức phụng sự Đảng, phục vụ nhân dân, nhất là phải “nắm vững lập trường và quan điểm giai cấp” trong xây dựng Đảng; thực hiện đúng đường lối quần chúng của Đảng và nâng cao ý thức tổ chức. Đồng chí nêu rõ: “Tất cả cán bộ và đảng viên bất kỳ hoạt động ở ngành nào, cũ hay mới, công nông hay trí thức, cấp trên hay cấp dưới đều phải đoàn kết, nhất trí, phải hăng hái công tác, hăng hái chấp hành nghị quyết của đa số và cấp trên, tuyệt đối phải phục tùng kỷ luật của Đảng”.

Khi đảm nhiệm vai trò Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng, đồng chí Lê Văn Lương đã có nhiều đóng góp đối với sự nghiệp xây dựng Đảng ngày càng lớn mạnh. Công tác này đã góp phần phát triển được đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực, xây dựng hệ thống tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh ở các cấp, các ngành, với cơ chế hoạt động ngày càng tiến bộ. Trong công tác tổ chức, đồng chí còn có trách nhiệm cao đối với sinh mạng chính trị của cán bộ, đảng viên và công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng, yêu thương cán bộ, công minh, kiên quyết bảo vệ cái đúng và người tốt, đấu tranh không khoan nhượng với cái sai; gần gũi quần chúng, vì sự tiến bộ của đồng chí mình. Đồng chí luôn đi sát cơ sở, đặc biệt chú trọng chỉ đạo việc thực hiện đường lối, chính sách cán bộ của Đảng.

Trong 10 năm làm Bí thư Thành ủy Hà Nội (1976- 1986), bên cạnh sự ngổn ngang về lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, đồng chí Lê Văn Lương rất chú trọng đến việc xây dựng thế hệ cách mạng cho đời sau. Nhiều chủ trương, phong trào hoạt động của thanh niên mang lại kết quả tích cực như sự ra đời Lực lượng Thanh niên xung phong Thủ đô xây dựng vùng kinh tế mới… đều do đồng chí đề xuất và trực tiếp chỉ đạo. Qua phong trào, nhiều cán bộ trẻ được tuyển lựa làm công tác Đoàn ở cơ sở thời kỳ ấy, nay đã giữ vị trí chủ chốt trong bộ máy Đảng, chính quyền của thành phố Hà Nội.

Đồng chí Lê Văn Lương là học trò, cộng sự thân tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong những năm tháng cuối đời của Bác, khi Bác đang chữa bệnh ở nước ngoài, đồng chí đã luôn ở bên Bác, nhận những chỉ thị của Bác đối với Bộ Chính trị và truyền đạt lại các ý kiến của Bộ Chính trị đối với Bác. Tấm gương giản dị, chí công vô tư của Bác được đồng chí Lê Văn Lương thấm nhuần sâu sắc. Một ví dụ nhỏ: ngay sau khi không tham gia Ban Chấp hành Trung ương và thôi giữ chức vụ Bí thư Thành ủy Hà Nội, đồng chí đã có ý định trả lại căn nhà công vụ mà Trung ương dành cho mình. Ý nguyện ấy đã được người vợ thân yêu của đồng chí - đại tá Nguyễn Thị Bích Thuận - thực hiện sau này.

Đồng chí Lê Văn Lương là một người lãnh đạo trung thực, ngay thẳng, dám nhận trách nhiệm trước sai lầm, thành thật sửa chữa, không vì lợi ích cá nhân, đồng thời cũng là người nhân hậu, sống có tình, có nghĩa với đồng chí, đồng bào. Ví dụ, trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, do không xuất phát từ thực tiễn nước ta, lại làm theo kinh nghiệm của nước ngoài nên đã phạm phải một số sai lầm. Trước khuyết điểm chung ấy, Bác Hồ và Trung ương Đảng đã dũng cảm tự phê bình và đề ra phương hướng sửa chữa. Đồng chí Lê Văn Lương đã tích cực xuống cơ sở nắm tình hình và xác minh những sai lầm để báo cáo với Bác, với Trung ương Đảng, giúp Trung ương đề ra những biện pháp sửa sai. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, đồng chí Lê Văn Lương đã dũng cảm, trung thực nêu lên tất cả những sai lầm, thể hiện trong bản báo cáo do đồng chí chuẩn bị trình Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1956. Bản báo cáo đã nhìn thẳng vào sự thật, tổng hợp đầy đủ những sai lầm, tổn thất để Hội nghị Trung ương xem xét và được Hội nghị Trung ương chấp nhận. Hội nghị Trung ương cũng đồng ý những biện pháp sửa sai đã đề ra trong báo cáo như: thả ngay những người bị bắt oan; minh oan ngay cho những người bị bắt oan, bị xử oan; khôi phục đảng tịch cho những đảng viên bị xử lý sai, v v… Do đó, công tác sửa sai của Đảng được tiến hành rất khẩn trương và có kết quả. Bản thân đồng chí Lê Văn Lương thấy mình có phần trách nhiệm về sai lầm trong công tác chỉnh đốn tổ chức Đảng, đã tự xin rút khỏi Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, có hàng vạn cán bộ, đảng viên, chiến sĩ bị địch bắt, tù đày. Trong số đó, cũng có một số người không chịu nổi sự tra tấn của địch, đã đầu hàng làm tay sai cho chúng. Do đó, một số tổ chức Đảng đã nghi kị, không tin tưởng những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ bị địch bắt, có nơi không bố trí đề bạt vào các vị trí quan trọng, không bố trí ở một số ban của Đảng. Nhận thấy bất cập ấy, đồng chí Lê Văn Lương, lúc đó là Thường trực Ban Bí thư đã đề xuất với Ban Bí thư ban hành Chỉ thị: “Về việc đón tiếp những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ bị địch bắt, tù đày là những người chiến thắng trở về”. Từ đó, những nghi kỵ, mặc cảm được giải tỏa. Những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ bị bắt được xác minh rõ ràng thì bố trí, đề bạt như những cán bộ khác. Rất nhiều anh em bị tù đày trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, vì chưa có chính sách thật phù hợp, nên chịu thiệt thòi nhiều mặt. Với sự tham mưu sáng suốt của đồng chí, Đảng, Nhà nước đã nhanh chóng ban hành chính sách mới kịp thời động viên số những người này.

Lúc còn là tù án chém ở Sài Gòn, những cử chỉ, hành động của đồng chí Lê Văn Lương không những thể hiện tấm lòng nhân hậu của đồng chí, mà còn cảm hóa được nhiều tên cai ngục ác ôn. Ví dụ, phía sau xà-lim có rặng đu đủ, chim đến kêu ríu rít. Nhưng ít ngày sau thấy tù án thường cứ vác sào, vác gậy đuổi. Hỏi mới biết cai ngục ra lệnh cho họ phải đuổi chim giữ đu đủ chín cho các tử tù ăn. Đồng chí đã gọi cai ngục vào, bảo: “Cho các anh đuổi chim, chúng tôi không nghe chim ríu rít nữa cũng được… Nhưng đu đủ chín phải để cho con nít ở khám phụ nữ. Chúng không có tội gì mà đã phải ở tù”. Hay một câu chuyện khác: Khi bọn lính gác tước qùa của tù án thường để cho tù chính trị án tử hình, đồng chí đã nói với bọn này: “Người ta ở tù so với chúng tôi còn khổ hơn, chúng tôi cấm các anh lấy của người ta như thế”. Với chính bọn lính gác, đồng chí cũng giác ngộ chúng: “Chúng tôi đánh thằng Tây, đánh đế quốc, thù oán gì các ông”.

Đi công tác ở Hải Phòng khi mới tiếp quản thành phố, đồng chí đã đến ngay các xóm lao động, cùng các đồng chí lãnh đạo của Hải Phòng xem xét giải quyết những vấn đề bức xúc nhất trong cuộc sống của người lao động.

Giữ cương vị Bí thư Thành ủy Hà Nội trong 10 năm (1976-1986), đồng chí Lê Văn Lương đã luôn luôn chăm lo, tìm cách giải quyết kịp thời các khó khăn của dân, thường xuyên kiểm tra để nắm chắc xem còn bao nhiêu gia đình chưa mua được gạo trong tháng, không có nước sạch để dùng, bao nhiêu nơi mất điện, thận trọng xem xét khiếu kiện của dân và có các ý kiến cần thiết cụ thể để giải quyết. Đồng chí đã đem hết tâm huyết lo cho thành phố, lo cho nhân dân vượt qua thời kỳ khó khăn đó.

Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, đồng chí Lê Văn Lương đã “nêu cao tấm gương trong sáng: trước quân thù - hiên ngang bất khuất, coi án chém nhẹ tựa lông hồng; với công việc - tận tụy, trung thành, liêm chính, bao giờ cũng đặt lợi ích cách mạng lên trên hết và trước hết; với đời sống của nhân dân - chăm lo thiết thực, cụ thể; với đồng chí - khiêm nhường, chu đáo, gần gũi thân tình... ; đối với bản thân - một tấm gương sáng chói về tự phê bình, một nếp sống đặc biệt trong sáng, giản dị và khoan dung”[2][2] Lê Văn Lương trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, Sđd, Tr. 5../.

----------------------------------------------------
[1] Lê Văn Lương trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.103
[2] Lê Văn Lương trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, Sđd, Tr. 5


25/03/2012

 ✯✯ 




Đồng chí Lê Văn Lương chăm lo công tác xây dựng Đảng



Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà cách mạng Lê Văn Lương (28/3/1912 - 28/3/2012)

_ TS. Lê Minh Phụng_
TCCSĐT - Là người cộng sản kiên trung, một cán bộ lãnh đạo giàu kinh nghiệm, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Văn Lương đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, trong đó có công tác xây dựng Đảng.


Có lẽ hiếm có những người trẻ tuổi bước vào đời với lòng yêu nước sôi nổi, đầy tinh thần hy sinh và sớm chọn được lý tưởng, con đường đúng đắn như đồng chí Lê Văn Lương. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, đặc biệt từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công đến lúc nghỉ hưu, đồng chí Lê Văn Lương có nhiều năm trực tiếp phụ trách công tác tổ chức của Đảng. Qua thực tiễn, đồng chí đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm và rút ra nhiều bài học quý báu về công tác xây dựng Đảng. Trên cơ sở đó, đồng chí đã có quan điểm chủ đạo, xuyên suốt đóng góp vào sự nghiệp xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh.


Lấy việc xây dựng tư tưởng làm phương châm chủ yếu

Từ năm 1951, khi đánh giá về chất lượng đảng viên và công tác xây dựng Đảng, đồng chí Lê Văn Lương cho rằng, không ít người chỉ nghĩ đến việc kết nạp được nhiều đảng viên, phát triển tổ chức cơ sở đảng rộng khắp, sửa đổi lề lối làm việc, kiện toàn cơ quan chỉ đạo các cấp... và cho rằng, những công việc đó là toàn bộ công tác xây dựng Đảng. Thực tế cho thấy, nếu tăng cường kết nạp đảng viên, mở rộng tổ chức cơ sở đảng... mà không nắm vững tư tưởng chỉ đạo công tác tổ chức thì sẽ phạm sai lầm; bởi, đã đưa vào Đảng những phần tử chính trị và tư tưởng lạc hậu, dẫn đến tình trạng là: tuy số đảng viên đông, tổ chức cơ sở đảng rộng, nhưng tổ chức đảng phức tạp, thậm chí không giúp ích gì cho việc thi hành nghị quyết Đảng, mà còn làm chậm hoặc cản trở việc thi hành đó nữa. Mặt khác, về thực tế, Đảng ta ra đời trong một nước nông nghiệp, đa phần đảng viên là nông dân, trình độ lý luận còn hạn chế, lập trường, quan điểm của Đảng đôi khi còn chưa rõ. Do đó, nhiều khi làm sai đường lối, hoặc có khi đi ngược chủ trương của Đảng mà không biết! Một số ít đảng viên, về tổ chức thì đã gia nhập Đảng, nhưng về tư tưởng thì còn ở ngoài Đảng. Với sự chỉ đạo chặt chẽ và kỷ luật nghiêm khắc của Đảng, nên bình thường họ vẫn chấp hành nghị quyết của Đảng, nhưng đôi khi họ biểu hiện những hành vi chưa thống nhất với Đảng. Đối với những đảng viên như vậy, nếu chỉ dựa vào hình thức kỷ luật Đảng để sửa chữa thì chưa đủ, mà cần phải tiến hành công tác giáo dục tư tưởng sâu sắc và lâu dài. Là nhà lãnh đạo giàu kinh nghiệm, nhìn rõ thực trạng đội ngũ cán bộ, đảng viên và yêu cầu của cách mạng, đồng chí Lê Văn Lương đã có quan điểm xây dựng Đảng ta vững mạnh toàn diện là:

- Giáo dục lý luận, tức là tăng cường trong Đảng việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin để cho mọi đảng viên hấp thụ được những kinh nghiệm quý của cách mạng thế giới, nắm vững lập trường, quan điểm của Đảng, nâng cao nhận thức chính trị; để đảng viên có đủ trình độ xác định hoặc nắm vững những chủ trương của Đảng trong mỗi tình thế.

- Lãnh đạo tư tưởng và cải tạo tư tưởng, làm cho đảng viên tẩy bỏ được được những tàn dư tư tưởng lạc hậu, đấu tranh chống những tư tưởng, khuynh hướng sai lầm, trau dồi lập trường, quan điểm vô sản; đồng thời, bảo đảm sự thống nhất trong Đảng. Những quan điểm cần trau dồi là: ý thức phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, quan điểm giai cấp, quan điểm tổ chức và quan điểm quần chúng, nhằm xóa bỏ triệt để bệnh cá nhân chủ nghĩa biểu lộ dưới nhiều hình thức, bệnh chủ quan, xa rời quần chúng...

Như vậy, giáo dục lý luận, lãnh đạo tư tưởng và cải tạo tư tưởng liên quan mật thiết với nhau. Giáo dục lý luận phải kết hợp với lãnh đạo và cải tạo tư tưởng. Nếu làm tốt hai nhiệm vụ trên, nhất định nâng cao được chất lượng của Đảng, làm cho Đảng thật sự xứng đáng đóng vai trò tiên phong lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng trong mọi thời kỳ.


Nắm vững lập trường, quan điểm giai cấp để nâng cao ý thức phụng sự Đảng, phụng sự nhân dân

Về lập trường, quan điểm giai cấp, đồng chí cho rằng, lập trường của Đảng ta là lập trường giai cấp công nhân. Do đó, trước mọi vấn đề, Đảng ta đều đứng trên lập trường đó để giải quyết và ấn định chủ trương, đường lối thích hợp và từ đó, định rõ tính chất, nhiệm vụ, động lực của cách mạng nước ta; đặt rõ đường lối giải quyết các vấn đề trọng yếu để đưa cách mạng đến thắng lợi. Bởi vậy, mỗi đảng viên phải nắm vững lập trường, thấm nhuần quan điểm giai cấp của Đảng thì mới hiểu rõ đường lối, chủ trương và mới có thể có chủ trương đúng, hành động đúng và trong công việc hằng ngày, sẽ tránh được sai lầm, khuyết điểm. Đồng chí chỉ rõ có hai khuynh hướng sai lầm cơ bản về lập trường và quan niệm giai cấp ở một bộ phận không nhỏ đảng viên của Đảng: “Một là, khuynh hướng coi nhẹ lập trường giai cấp và thiếu quan điểm giai cấp, do đó phạm sai lầm hữu khuynh. Hai là, khuynh hướng theo quan điểm lập trường và quan điểm giai cấp một cách máy móc, do đó phạm sai lầm tả khuynh”[1][1] Lê Văn Lương: Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 53..

Ý thức phụng sự Đảng, phụng sự nhân dân, đó là mục đích cao cả của Đảng ta là mưu lợi ích cho quần chúng nhân dân và lợi ích của quần chúng nhân dân cũng chính là lợi ích của Đảng. Do vậy, mỗi đảng viên phải hết lòng phụng sự lợi ích đó. Tuy nhiên, không phải đảng viên nào cũng thực hiện tốt nguyên lý đó.

Từ thực tiễn nhiều năm là người đứng đầu một số cơ quan của Đảng, đồng chí Lê Văn Lương có nhận xét sâu sắc và thẳng thắn chỉ ra: Trong Đảng, còn một số đảng viên chưa hiểu rõ quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của Đảng, của nhân dân và khi cần lựa chọn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích của Đảng, họ lựa chọn lợi ích cá nhân.



Đồng chí nhấn mạnh: “Trong việc giáo dục, cải tạo tư tưởng, vấn đề nâng cao ý thức của đảng viên phụng sự Đảng, phụng sự nhân dân là điểm căn bản, cấp thiết, cần chú ý làm trước hết. Vì đối với mỗi đảng viên, nếu ý thức phụng sự Đảng, phụng sự nhân dân cao, thì nó sẽ gây và phát triển nhiều đức tính tốt tốt khác. Nếu ý thức ấy kém thì nó cũng sẽ đem lại tất cả mọi khuyết điểm, sai lầm”.

Tâm huyết với vấn đề đó, đồng chí cho rằng, muốn nâng cao ý thức phụng sự Đảng, phụng sự nhân dân cho các đảng viên, Đảng phải chú ý việc giáo dục lý luận, làm cho mỗi đảng viên hiểu rõ vai trò và lực lượng vĩ đại của nhân dân trong sự nghiệp cải tạo và phát triển xã hội; sự thắng lợi tất yếu của cách mạng. Mặt khác, phải làm cho đảng viên nhận thức rõ vị trí, vai trò của Đảng và nhiệm vụ của mỗi đảng viên trong sự nghiệp cánh mạng. Do đó, muốn Đảng ta vững mạnh, chủ trương, đường lối của Đảng được thi hành đúng, các đảng viên tránh được những sai lầm tả khuynh, hữu khuynh để phụng sự Đảng và nhân dân một cách đắc lực, thì một vấn đề trọng yếu về tư tưởng cần giải quyết là làm cho các đảng viên nắm vững lập trường và quan điểm giai cấp đúng đắn. “Việc giáo dục cần phải cụ thể, dựa vào những thí dụ lấy trong công tác hằng ngày của địa phương để chỉ đạo cho đảng viên nhận rõ thế nào là nắm vững lập trường và quan điểm giai cấp”[2][2] Sđd, tr. 58.… .


Đi đúng đường lối quần chúng của Đảng và nâng cao ý thức tổ chức

Về đi đúng đường lối quần chúng của Đảng, đồng chí Lê Văn Lương khái quát ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu: Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có nhiệm vụ lãnh đạo đấu tranh để mưu lợi ích cho nhân dân và hiển nhiên, lợi ích của nhân dân cũng chính là lợi ích của Đảng. Do đó, mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều phải “từ trong quần chúng mà ra, trở lại nơi quần chúng”[3][3] Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr. 291.. Tức là, Đảng phải căn cứ vào nhu cầu, ý kiến, trình độ giác ngộ của quần chúng mà đề ra phương hướng, chủ trương...; rồi đem phương hướng, chủ trương... đó tuyên truyền, giải thích để quần chúng hiểu rõ và thực hiện - đó là đường lối quần chúng của Đảng. Và, đồng chí cũng thẳng thắn chỉ ra, trong việc thực hiện một số chủ trương công tác cụ thể ở một vài địa phương và những hoạt động hằng ngày của một bộ phận cán bộ còn biểu hiện những khuynh hướng sai lầm trái hẳn với đường lối đó của Đảng. Cụ thể là:

Mệnh lệnh, khi lãnh đạo cấp trên quyết định một việc gì, không giải thích kỹ cho cấp dưới; cấp dưới nhận được lệnh của cấp trên, không giải thích rõ cho quần chúng nhân dân hiểu để họ tự giác, phấn khởi thực hiện. Khi quần chúng phản đối, thì họ lại giải thích rằng, cấp trên bảo phải làm như vậy.

Quan liêu, chỉ dựa vào ý nghĩ chủ quan của mình đề ra chủ trương thực hiện công việc mà không điều tra, nghiên cứu thực tiễn, khách quan. Biểu hiện rõ nhất là ở lối làm việc hình thức, giấy tờ, ngồi tại cơ quan ra các văn bản, chỉ đạo... cấp dưới thực hiện mà không biết kết quả đó như thế nào.

Quân phiệt, biểu hiện ở một vài đơn vị trong lực lượng vũ trang. Cán bộ với chiến sỹ, quân với dân.

Từ những nhận định đó, đồng chí cho rằng, để loại bỏ những khuynh hướng thoát ly quần chúng và đi đúng đường lối quần chúng của Đảng, cần phải: “a. Nắm vững các quan điểm: ra sức phục vụ quần chúng, có tinh thần phụ trách trước quần chúng, tin tưởng quần chúng... và học tập kinh nghiệm của quần chúng. Nắm vững được những quan điểm, thì có thể thực hiện được phương pháp lãnh đạo: từ trong quần chúng mà ra, trở lại nơi quần chúng. b. Theo đúng lối làm việc dân chủ, mọi việc phải đem ra bàn bạc với quần chúng, khi quần chúng chưa giác ngộ và chưa tiếp thu ý kiến thì phải kiên nhẫn tiếp tục giải thích cho quần chúng, quyết không được dùng mệnh lệnh cưỡng bách quần chúng thi hành”[4][4] Lê Văn Lương: Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 61..

Những ý kiến về vấn đề này của đồng chí Lê Văn Lương, soi vào hiện nay, nếu làm tốt thì mối liên hệ giữa Đảng và dân ngày càng mật thiết và sự tin tưởng của quân chúng nhân dân với Đảng ngày càng lớn.

Về nâng cao ý thức tổ chức, đồng chí Lê Văn Lương, khái lược: Muốn làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, Đảng phải là một khối thống nhất. Tất cả cán bộ, đảng viên đều phải đoàn kết, nhất trí. Phải hăng hái làm việc và tuyệt đối phục tùng kỷ luật Đảng; đồng thời, đem ý kiến, kinh nghiệm của mình góp vào việc hoạch định các chủ trương, đường lối của Đảng và giúp sức các cơ quan chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ. Đồng chí nhận định: Nói chung, đa số đảng viên đều hiểu rõ và ra sức thực hiện đúng nhiệm vụ cơ bản đó; nhưng, vẫn còn một số ít đảng viên, vì ý thức tổ chức chưa được cao, nên trong tư tưởng, thái độ và hành động làm việc hằng ngày, còn nhiều hạn chế. Cụ thể là, khi được phân công nhiệm vụ, có người suy tính, lựa chọn, đòi hỏi một vị trí “thích hợp”; không thành tâm cùng nhau đoàn kết, vì lợi ích cá nhân, rồi sinh ra mất đoàn kết nội bộ; hoạt động của ngành nào chỉ thấy lợi ích của ngành ấy, thiếu phối hợp, thậm chí còn có xung đột với ngành khác... Mặt khác, báo cáo không trung thực về hoạt động của địa phương, đơn vị mình với cấp trên; nên cấp trên không nắm rõ được tình hình, dẫn đến việc chỉ đạo không kịp thời, không sát thực tế.

Suốt cuộc đời gần 70 năm hoạt động cách mạng, đồng chí nhiều năm gắn bó với công tác xây dựng Đảng. Những quan điểm, biện pháp, kinh nghiệm của đồng chí Lê Văn Lương vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn đối với công tác xây dựng Đảng hiện nay./.

-----------------------------------------------
[1] Lê Văn Lương: Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 53
[2] Sđd, tr. 58
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr. 291
[4] Lê Văn Lương: Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 61

23/03/2012

 ✯✯ 




DIỄN VĂN KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH ĐỒNG CHÍ LÊ VĂN LƯƠNG (Do đc Nguyễn Văn Thông, Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Chủ tịch UBND tỉnh trình bày tại Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Văn Lương)



Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Văn Lương (28/3/1912 – 28/3/2012)


- Kính thưa đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng!
- Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương; các đồng chí lãnh đạo các tỉnh, thành phố!
- Kính thưa đồng chí Nguyễn Thị Bích Thuận, phu nhân đồng chí Lê Văn Lương và gia đình!
- Kính thưa các đồng chí lãnh đạo và nguyên là lãnh đạo tỉnh, các đồng chí đại biểu, khách quý và đại diện các tầng lớp nhân dân!


Hôm nay, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND, Uỷ ban MTTQ Việt Nam tỉnh Hưng Yên long trọng tổ chức Lễ mít tinh kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Văn Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Bí thư Thành uỷ Hà Nội, người chiến sĩ cộng sản kiên trung, mẫu mực, chí tình, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người “cán bộ lãnh đạo giàu kinh nghiệm đã cùng với Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”, người con ưu tú của quê hương Hưng Yên.

Thay mặt Tỉnh uỷ, HĐND, UBND, UBMT Tổ quốc tỉnh, tôi nhiệt liệt chào mừng và gửi lời chúc tốt đẹp nhất tới đồng chí Lê Hồng Anh; các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành Trung ương; bà Nguyễn Thị Bích Thuận, phu nhân đồng chí Lê Văn Lương cùng đại biểu gia đình, dòng họ; các đồng chí lãnh đạo các tỉnh, thành phố; các đồng chí lãnh đạo và nguyên là lãnh đạo tỉnh; lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh và các huyện, thành phố; đại diện các lực lượng vũ trang; đại biểu các tầng lớp nhân dân đã về dự lễ kỷ niệm trọng thể này.

Với tấm lòng thành kính, biết ơn và tự hào về đồng chí Lê Văn Lương, người con yêu dấu của quê hương Hưng Yên, chúng ta cùng nhau ôn lại thân thế, sự nghiệp hoạt động cách mạng và cuộc đời của đồng chí.


Kính thưa các đồng chí và các vị đại biểu!

Đồng chí Lê Văn Lương, tên thật là Nguyễn Công Miều, sinh ngày 28 tháng 3 năm 1912 trong một gia đình nhà nho có truyền thống yêu nước tại làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Được thừa hưởng những giá trị tốt đẹp của gia đình, dòng họ và truyền thống của quê hương, ngay từ thuở nhỏ, đồng chí đã mang trong lòng tình yêu quê hương, đất nước và sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1926, ở tuổi 14, khi còn là học sinh Trường Bưởi, Hà Nội, đồng chí đã tham gia các hoạt động bãi khóa để tang nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh. Năm 1927, khi mới 15 tuổi, đồng chí gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Tháng 6 năm 1929, đồng chí gia nhập nhóm Đông Dương Cộng sản Đảng - một trong ba tổ chức cộng sản ở nước ta lúc đó, khi 3 tổ chức cộng sản thống nhất thành một đảng, đồng chí trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng chí là người cộng sản kiên trung thuộc thế hệ những đảng viên Cộng sản đầu tiên của Đảng ta.

Tháng 8 năm 1929, đồng chí được cử vào Nam bộ để gây dựng cơ sở cách mạng. Từ năm 1930, thực hiện chủ trương “vô sản hoá”, đồng chí đã hoạt động trong phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn, lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh chống tư bản thực dân. Tháng 3 năm 1931, trong một cuộc lãnh đạo đấu tranh, đồng chí bị chính quyền thực dân Pháp bắt và giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Sau hơn hai năm bị giam giữ, bị dùng nhiều cực hình tra tấn, kẻ thù vẫn không lấy được lời khai nào từ đồng chí. Tuy nhiên, Toà án đại hình Sài Gòn vẫn kết án tử hình đối với đồng chí Lê Văn Lương cùng 7 đồng chí khác. Những lời lẽ phản kháng của đồng chí Lê Văn Lương và các đảng viên cộng sản khác tại phiên toà đã có tiếng vang lớn, tác động sâu sắc đến nhân dân và công nhân Sài Gòn, Chợ Lớn, tạo nên phong trào đấu tranh đòi chính quyền thực dân phải giảm án cho những người cộng sản. Cùng với đó, cuộc đấu tranh của lực lượng tiến bộ Pháp đòi bỏ án tử hình và trả tự do cho tù chính trị ở Đông Dương thắng lợi, đồng chí Lê Văn Lương đã được giảm từ án tử hình, xuống án chung thân, rồi lại bị đọa đầy nơi địa ngục trần gian Côn Đảo (tháng 1 năm 1934). Với tinh thần kiên trung của những người cộng sản, những người từng coi án chém nhẹ tựa lông hồng, đồng chí Lê Văn Lương đã cùng các đồng chí Ngô Gia Tự, Phạm Hùng, Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Duy Trinh, Tôn Đức Thắng... tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ nhà tù, tiến hành đoàn kết các lực lượng tù nhân, lãnh đạo đấu tranh chống khổ sai, hà khắc và tổ chức học tập văn hoá, biến nhà tù thành trường học cách mạng đầu tiên trong cả nước[1][1] Lời phát biểu của đồng chí Võ Chí Công, Chủ tịch Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại buổi Lễ trao tặng Huân chương Sao vàng đối với đồng chí Lê Văn Lương.. Việc ra đời của “trường học sau song sắt”[2][2] Theo bài “Đồng chí Lê Văn Lương, một hạt nhân lãnh đạo của chi bộ đặc biệt trong nhà tù Côn Đảo” của Nguyễn Đình Thống. nơi địa ngục trần gian Côn Đảo có công rất lớn của đồng chí Lê Văn Lương. Trường học đã đào tạo nên một thế hệ cán bộ có lý luận, trưởng thành trong đấu tranh gian khổ, trở thành những hạt giống đỏ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của Đảng và nhân dân ta.

Tháng Tám năm 1945, đồng chí Lê Văn Lương cùng với những người bị tù đầy ở Côn Lôn được đón mừng tin chính quyền về tay Việt Minh. Ngày 23/9/1945, trên chiếc canô mang tên Giải Phóng do đồng chí Tôn Đức Thắng cầm lái, đồng chí Lê Văn Lương đã cùng các chiến sỹ cộng sản trung kiên trở về đất liền. Tháng 10/1945, đồng chí tiếp tục quá trình hoạt động cách mạng. Là Uỷ viên dự khuyết Xứ uỷ Nam Bộ, đồng chí đã cùng tập thế Xứ uỷ chỉ đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ đến khi được Trung ương điều ra miền Bắc công tác (tháng 1/1946). Thời gian công tác của đồng chí Lê Văn Lương tại Sài Gòn và Nam Bộ không nhiều so với cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí, song đã để lại hình ảnh người thanh niên “Xứ nhãn lồng vẫn sống mãi trong lòng Đảng bộ và nhân dân thành phố mang tên Bác”[3][3] Bài “Về những năm tháng hoạt động của đồng chí Lê Văn Lương ở Sài Gòn và Nam Bộ” của Phạm Ngọc Bích. .

Từ tháng 1 năm 1946, đồng chí Lê Văn Lương được Trung ương điều ra công tác ở miền Bắc, giúp Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ đạo Báo Sự thật và Nhà Xuất bản Sự thật. Đầu năm 1947, do nhu cầu kiện toàn bộ máy của Trung ương, đồng chí Lê Văn Lương được bầu làm Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng và được chỉ định làm Bí thư Văn phòng Thường vụ Trung ương Đảng. Cuối năm 1948, đồng chí Lê Văn Lương được chỉ định làm Trưởng ban Đảng vụ, đồng thời được phân công giúp Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo Điều lệ và chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Tại Đại hội II, đồng chí được bầu là Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, phụ trách Ban Tổ chức và chỉ đạo Văn phòng Trung ương, làm công việc thường trực của Trung ương bên Bác Hồ và Tổng Bí thư Trường Chinh.

Năm 1954, hoà bình lập lại, đồng chí được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khi Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo triển khai nhiều cuộc vận động chỉnh đốn tổ chức, phối hợp với cuộc vận động cải cách ruộng đất, đồng chí được cử tham gia Ban lãnh đạo Cải cách ruộng đất. Do công tác cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức còn có những sai lầm, khuyết điểm, Bác Hồ và Trung ương Đảng đã tự phê bình và đề ra phương hướng sửa chữa, đồng chí Lê Văn Lương đã thấy rõ phần trách nhiệm của mình, tự nhận cho mình một mức kỷ luật nghiêm khắc, rút ra khỏi Bộ Chính trị, chuyển sang làm Bí thư Khu uỷ Tả ngạn từ tháng 11 năm 1956. Ngoài các nhiệm vụ trên, từ năm 1949 đến năm 1956, đồng chí còn được phân công làm Giám đốc Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc. Tháng 8 năm 1957, đồng chí được Trung ương điều chuyển về làm Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Đầu năm 1959, đồng chí được cử giữ chức Chánh Văn phòng Trung ương Đảng.

Tháng 9 năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Ban Bí thư. Khoảng thời gian từ năm 1960 đến năm 1969, đồng chí được làm việc bên Bác Hồ nhiều hơn. Năm 1967, khi Bác đi kiểm tra sức khoẻ và điều trị ở Trung Quốc, đồng chí Lê Văn Lương đã được Bác tin tưởng cử đi cùng để trực tiếp giúp việc Bác. Đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Bác giao khi đảm bảo thông suốt ý kiến của Bác với các đồng chí trong Bộ Chính trị để chỉ đạo cách mạng trong nước, đồng thời giữ mối quan hệ đối ngoại tốt đẹp, tranh thủ được sự giúp đỡ của Trung Quốc với cách mạng Việt Nam. Quá trình rèn luyện, công tác và phẩm chất đạo đức tốt đẹp của đồng chí từ thời thanh niên sôi nổi trong phong trào công nhân Chợ Lớn, trong xà lim, án chém rồi địa ngục trần gian Côn Đảo cho đến khi được đảm nhận các chức vụ công tác ở Trung ương được Bác Hồ quý mến, ghi nhận.

Từ năm 1973, đồng chí được phân công kiêm Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng. Tháng 12 năm 1976, tại Đại hội Đại biểu lần thứ IV của Đảng, đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Đầu năm 1977, đồng chí được phân công tham gia Thành ủy Hà Nội và được bầu làm Bí thư Thành ủy. Đại hội đại biểu lần V của Đảng, đồng chí Lê Văn Lương tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, tiếp tục làm Bí thư Thành uỷ Hà Nội. 10 năm trong cương vị Bí thư Thành uỷ, đồng chí đã mang hết sức mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng Thủ đô. Đồng chí là đại biểu Quốc hội khóa VI và khóa VII.

Năm 1986, dù đã được nghỉ hưu, song với đức độ và kinh nghiệm trong công tác, đồng chí vẫn được Bộ Chính trị phân công giúp Trung ương tổng kết công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ. Đồng chí lo toan việc Đảng, việc nước cho đến những ngày cuối đời mình.


Kính thưa các đồng chí và quý vị đại biểu!

Trong gần 70 năm hoạt động cách mạng, qua nhiều thời kỳ với nhiều cương vị khác nhau, đồng chí Lê Văn Lương luôn tỏ rõ là một người cộng sản kiên cường, dũng cảm; một nhà lãnh đạo giàu kinh nghiệm, tài năng và đức độ. Đồng chí thường được Đảng, Bác Hồ giao những nhiệm vụ quan trọng ở những thời điểm quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.

Những năm 1950, Đảng ta quyết định tổ chức Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ II, đưa Đảng trở lại hoạt động công khai sau 15 năm hoạt động bí mật. Chính vì vậy, công tác chuẩn bị về nhân sự và các điều kiện cho Đại hội II là công việc đặc biệt quan trọng. Ở thời điểm này, đồng chí Lê Văn Lương đã được Đảng và Bác Hồ và Tổng Bí thư Trường Chinh tin tưởng giao chuẩn bị lập danh sách những người ứng cử Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Việc chuẩn bị về nhân sự tham gia Ban Chấp hành Trung ương ở thời điểm này là vấn đề rất khó, do từ năm 1948 -1950, số người vào Đảng tăng lên rất nhanh, số đồng chí xứng đáng được lựa chọn tham gia ứng cử khá đông, phân tán ở các vùng, miền trong cả nước. Với đức tính thận trọng, công bằng, trách nhiệm, bằng cách thức dân chủ, lắng nghe ý kiến của cán bộ và nhân dân, đồng chí Lê Văn Lương đã giúp Thường vụ Trung ương Đảng xây dựng được danh sách các đồng chí tham gia ứng cử Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Cùng với việc chuẩn bị về nhân sự, đồng chí đã tích cực giúp Trung ương chuẩn bị chu đáo dự thảo Điều lệ Đảng, góp phần quan trọng vào thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Năm 1954, đồng chí Lê Văn Lương được phân công đảm nhiệm cương vị mới: Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Khi Đảng, Bác Hồ phát hiện có những sai lầm, khuyết điểm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, trong vai trò thành viên Ban cải cách, đồng chí Lê Văn Lương đã rất tích cực đi cơ sở xác minh tình hình. Đồng chí đã giúp Trung ương xây dựng báo cáo, tổng hợp đầy đủ những sai lầm, tổn thất, đề ra những biện pháp sửa sai trình Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1956 xem xét, quyết định. Với tinh thần dũng cảm, nghiêm túc của Trung ương Đảng và Bác Hồ, công tác sửa sai của Đảng đã được tiến hành khẩn trương và có kết quả.


Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chúng ta có hàng vạn cán bộ, đảng viên, chiến sĩ bị địch bắt, tù đày, trong đó có số ít người đã không chịu nổi sự tra tấn, đầu hàng địch. Lúc bấy giờ, một số tổ chức Đảng nghi ngại, thiếu tin tưởng những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ bị địch bắt, có nơi không bố trí, đề bạt vào các vị trí quan trọng của Đảng và nhà nước, điều này ảnh hưởng rất lớn đến tâm trạng của đại bộ phận cán bộ, đảng viên, chiến sỹ kiên trung. Trong cương vị Thường trực Ban Bí thư, đồng chí Lê Văn Lương lắng nghe báo cáo của Ban Tổ chức Trung ương và thay mặt Ban Bí thư ban hành Chỉ thị rất quan trọng “Về việc đón tiếp những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ bị địch bắt, tù đày là những người chiến thắng trở về”, được cán bộ, đảng viên, chiến sỹ rất hoan nghênh.

Công tác tổ chức, công tác cán bộ là sự nghiệp gần như gắn bó trọn cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Văn Lương. Từ những ngày biệt giam chờ án chém ở Khám Lớn Sài Gòn hay những đêm ngày tranh đấu không mệt mỏi ở ngục Côn Đảo, đồng chí luôn là người tổ chức, đoàn kết tập hợp bạn tù thành khối thống nhất, đấu tranh bảo về quyền được sống và đấu tranh phản kháng chế độ hà khắc của nhà tù thực dân. Phần lớn thời gian làm công tác tổ chức cán bộ, với tinh thần trách nhiệm cao, hết lòng vì công việc; với đạo đức cách mạng sáng trong chí công vô tư; với lối sống khiêm tốn, giản dị, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng, đồng chí Lê Văn Lương đã có những đóng góp tích cực vào công tác tổ chức xây dựng Đảng và sự nghiệp chung của cách mạng Việt Nam.

Không chỉ là nhà lãnh đạo giàu kinh nghiệm, đồng chí Lê Văn Lương còn là một cây bút xuất sắc trong nhiều lĩnh vực. Nơi ngục tối Côn Đảo, đồng chí đã được chi uỷ giao nhiệm vụ viết thư và tài liệu gửi về đất liền; viết bài chỉ đạo Báo “Tiến lên”, tờ báo bí mật của Hội tù nhân hướng dẫn đấu tranh trong tù và Tập san “Ý kiến chung”, tập san nghiên cứu lý luận trong tù; chỉ đạo biên tập xuất bản Báo “Độc lập” ở Côn Đảo. Trong những ngày ở chiến khu Việt Bắc, đồng chí đã nghiên cứu thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm nêu lên 10 nội dung cần thiết cho kháng chiến từ công tác chỉ huy, công tác chuẩn bị nhân lực, vật lực và công tác tiến hành[4][4] “Bài kinh nghiệm kháng chiến” đăng Báo Sự thật ngày 05/12/1946. . Đáng chú ý, đồng chí còn có các bài viết rất quan trọng về công tác xây dựng Đảng như “Học tập Nghị quyết Đại hội Đảng như thế nào”[5][5] Bài đăng Báo Nhân Dân số 13, ngày 21/6/1951. , “Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng”[6][6] Bài đăng Báo Nhân Dân từ số 14, ngày 26/6/1951 đến số 18, ngày 26/7/1951. , cho đến nay vẫn những bài viết của đồng chí vẫn còn rất sâu sắc, nhất là trong dịp Đảng ta chuẩn bị quán triệt Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Những cống hiến của đồng chí Lê Văn Lương đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc ta đã được giáo sư Vũ Khiêu trân trọng, thể hiện trong câu đối:
"Mười lăm tuổi lên đường chính khí vươn cao trời biển rộng
Bảy mươi năm cùng Đảng công huân rực sáng cổ kim soi"[7][7] Câu đối do Giáo sư Vũ Khiêu đề tặng gia đình đồng chí Lê Văn Lương vào dịp đồng chí được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng năm 1991. .



Kính thưa quý vị đại biểu!

Gần 70 năm hoạt động cách mạng sôi nổi, liên tục; suốt đời trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh, đem hết sức lực, tài năng và trí tuệ phục vụ sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân. Là người cộng sản trung kiện thuộc thế hệ đầu tiên của Đảng ta, một cán bộ lãnh đạo giàu kinh nghiệm, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Văn Lương đã cùng Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí đã nêu cao tấm gương trong sáng, với quân thù: hiên ngang, bất khuất, coi án chém nhẹ tựa lông hồng; với công việc: tận tuỵ, trung thành và liêm chính, đặt lợi ích cách mạng lên trên hết; với đời sống nhân dân: chăm lo thiết thực, cụ thể; với đông chí: khiêm nhường, chu đáo, gần gũi, thân tình; đối với gia đình: một người con hiếu thuận, người chồng, người cha mẫu mực; đối với bản thân: một tấm gương sáng về tự phê bình và phê bình. Với những cống hiến to lớn, đồng chí đã được Đảng và Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều Huân chương cao quý khác. Đảng và nhân dân ta ghi nhớ công lao của đồng chí, người con ưu tú của đất nước và quê hương Hưng Yên.


Kính thưa các đồng chí và các vị đại biểu!

Trong phần lớn cuộc đời cách mạng của mình, do sự phân công của Đảng, của tổ chức, đồng chí Lê Văn Lương không hoạt động cách mạng và công tác ở địa bàn Hưng Yên, song đồng chí luôn nặng nghĩa, vẹn tình với gia đình, dòng họ và quê hương, luôn dành cho Hưng Yên những tình cảm đặc biệt sâu nặng, đồng chí đã thường xuyên liên lạc và giác ngộ cách mạng đối với anh chị em, con cháu trong gia đình, dòng họ và thanh niên quê hương.

Sau này, khi đảm nhiệm nhiều công việc quan trọng do Đảng và nhân dân giao phó, đồng chí vẫn luôn dành thời gian quan tâm đến sự phát triển và dành thời gian về thăm quê hương. Năm 1981, khi xã Nghĩa Trụ làm xong chiếc cầu bê tông kiên cố bắc qua sông Nghĩa Trụ, nối xã với quốc lộ số 5, đồng chí Lê Văn Lương đã về dự lễ khánh thành. Ngày 11 tháng 1 năm 1984, khi Đảng bộ và nhân dân xã Nghĩa Trụ khởi công xây dựng Nhà truyền thống của xã, đồng chí Lê Văn Lương đã về thăm bà con quê hương và dự Lễ khởi công. Khi Nhà truyền thống được khánh thành, đồng chí đã cùng với lãnh đạo Bộ Văn hóa duyệt nội dung trưng bày tại Nhà truyền thống…Không chỉ với quê hương Nghĩa Trụ, đồng chí Lê Văn Lương còn dành nhiều tình cảm các địa phương khác trong tỉnh. Hiện nay, ở xã Long Hưng (Văn Giang) vẫn còn cây phượng vĩ do đồng chí trồng lưu niệm trong lần về thăm và động viên giáo viên, học sinh Trường cấp 1-2 của xã...


Kính thưa các đồng chí và các vị đại biểu!

Là tỉnh có truyền thống văn hiến và cách mạng, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên luôn tự hào sâu sắc khi thời nào, lĩnh vực nào cũng có những danh nhân tiêu biểu. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, Hưng Yên tự hào có lớp lớp những người con theo tiếng gọi của Đảng, của Bác Hồ và của non sông anh dũng chiến đấu không quản hy sinh thân mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong lớp lớp những người con ưu tú đó phải kể đến: cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, người đảm nhận xứ mệnh chèo lái con thuyền cách mạng của đất nước ta trong sự nghiệp đổi mới đến bến bờ thắng lợi; đồng chí Lê Văn Lương, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Bí thư Thành uỷ Hà Nội và nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước. Đó là những người con ưu tú không chỉ của quê hương Hưng Yên, mà là những người con ưu tú của đất mẹ Việt Nam đã góp phần làm rạng danh cho Tổ quốc, là những tấm gương sáng để Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên học tập và noi theo.

Phát huy truyền thống của quê hương, Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân Hưng Yên đang nỗ lực vươn lên cùng cả nước thực hiện sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển. Từ một tỉnh thuần nông, điểm xuất phát về kinh tế thấp, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, lạc hậu, song được sự giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và các ban, bộ, ngành Trung ương, sự cố gắng nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân, sau 15 năm tái lập, Hưng Yên đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế tăng trưởng nhanh, toàn diện và tương đối vững chắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước bình quân trên 12% năm. So với khi mới tái lập, giá trị sản xuất công nghiệp tăng gấp trên 50 lần; thu ngân sách tăng gấp 50 lần, kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 25 lần; thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 6 lần. Đáng chú ý, năm 2011 Hưng Yên đã đã long trọng tổ chức thành công 3 sự kiện lớn của tỉnh, 180 năm thành lập tỉnh, 70 năm thành lập Đảng bộ tỉnh và 15 năm tái lập tỉnh. Cũng trong năm 2011, thu ngân sách của tỉnh đạt 4.248 tỷ đồng tăng trên 20% so với kế hoạch đã đề ra. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: nông nghiệp 24% - công nghiệp, xây dựng 45% - dịch vụ 31%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 24,4 triệu đồng. Hạ tầng kinh tế - xã được nâng cấp và đầu tư xây mới. Diện mạo đô thị và nông thôn ngày một khởi sắc; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục phát triển và có nhiều tiến bộ; quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân được phát huy, dân chủ được mở rộng. Công tác xây dựng Đảng được chú trọng; công tác chính trị, tư tưởng có nhiều đổi mới, tạo sự thống nhất tin tưởng trong Đảng bộ và sự đồng thuận trong nhân dân; cuộc vận động xây dựng Đảng được đẩy mạnh, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong toàn Đảng bộ. Tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tạo sức lan toả rộng khắp trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, khơi dậy phong trào thi đua yêu nước trong toàn xã hội. Hưng Yên hôm nay đang ngày càng khởi sắc. Những thành tựu đạt được rất đáng tự hào, là tiền đề quan trọng để Đảng bộ tỉnh ta tiếp tục lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 17 và Nghị quyết Đại hội 11 của Đảng.


Kính thưa các đồng chí và các vị đại biểu!

Hôm nay chúng ta họp mặt tại đây để kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Văn Lương, một chiến sỹ cộng sản kiên cường, một nhà lãnh đạo giàu kinh nghiệm có uy tín của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, người con ưu tú của quê hương Hưng Yên. Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân Hưng Yên nguyện noi theo tấm gương người cộng sản kiên trung, mẫu mực của đồng chí Lê Văn Lương và tinh thần cách mạng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, phát huy truyền thống của quê hương, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, nhất là công cuộc quy hoạch, đào tạo cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; xây dựng hệ thống chính trị các cấp trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân; khai thác lợi thế, huy động nguồn lực, chủ động hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế cao, chất lượng và bền vững; xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, mang nét đặc trưng của địa phương. Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng vững chắc để Hưng Yên cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020.

Thay mặt Tỉnh uỷ, HĐND, UBND, Uỷ ban MTTQ Việt Nam tỉnh, tôi chân thành cảm ơn sự quan tâm lãnh đạo của đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng và các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, sự giúp đỡ hiệu quả của các ban, bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương đối với Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên; cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các vị đại biểu và nhân dân đã tới dự Lễ kỷ niệm trọng thể này.






---------------------------
[1] Lời phát biểu của đồng chí Võ Chí Công, Chủ tịch Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại buổi Lễ trao tặng Huân chương Sao vàng đối với đồng chí Lê Văn Lương.
[2] Theo bài “Đồng chí Lê Văn Lương, một hạt nhân lãnh đạo của chi bộ đặc biệt trong nhà tù Côn Đảo” của Nguyễn Đình Thống.
[3] Bài “Về những năm tháng hoạt động của đồng chí Lê Văn Lương ở Sài Gòn và Nam Bộ” của Phạm Ngọc Bích.
[4] “Bài kinh nghiệm kháng chiến” đăng Báo Sự thật ngày 05/12/1946.
[5] Bài đăng Báo Nhân Dân số 13, ngày 21/6/1951.
[6] Bài đăng Báo Nhân Dân từ số 14, ngày 26/6/1951 đến số 18, ngày 26/7/1951.
[7] Câu đối do Giáo sư Vũ Khiêu đề tặng gia đình đồng chí Lê Văn Lương vào dịp đồng chí được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng năm 1991.


 ✯✯ 



Người cộng sản mẫu mực



Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà cách mạng Lê Văn Lương (28/3/1912 - 28/3/2012)

_ Quang Dũng _
Đồng chí Lê Văn Lương tên thật là Nguyễn Công Miều, sinh ngày 28-3-1912 trong một gia đình Nho học yêu nước tại làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Năm 15 tuổi, khi đang học trưởng Bưởi cùng đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí đã được giác ngộ cách mạng và gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên(VNCMTN). Sau Đại hội Kỳ bộ Bắc kỳ của Hội VNCMTN (năm 1928), thực hiện chủ trương vô sản hóa, đồng chí vào Sài Gòn, hoạt động trong phong trào công nhân dưới sự chỉ đạo của đồng chí Ngô Gia Tự. Ngày 23-3-1931, đồng chí trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh của hơn 400 công nhân Hãng dầu Sô-cô-ny, sau đó, bị địch bắt cùng đồng chí Phạm Hùng, Lý Tự Trọng, giam ở Khám lớn Sài Gòn và bị kết án tử hình trong vụ án Đảng cộng sản Đông Dương(14-5-1933). Không đủ chứng cứ, thực dân Pháp giảm xuống án chung thân, đày đi Côn Đảo (tháng 1-1934).

Biến nhà tù thành trường học và rèn luyện khí tiết người cộng sản, suốt thời gian bị giam cầm ở Côn Đảo, đồng chí Lê Văn Lương đã cùng chi ủy nhà tù lãnh dạo nhiều cuộc đấu tranh đòi cải thiện đời sống, tổ chức vượt ngục; tự học tập lý luận, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh trong tù và biên soạn dịch tài liệu gửi về cho Đảng trong đất liền. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, đồng chí cùng với các đồng chí Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Trần Ngọc Danh... đấu tranh với chúa đảo, yêu cầu bàn giao chính quyền cho tù chính trị (vào cuối tháng 8 năm 1945). Báo Độc lập do đồng chí làm chủ biên, tuyên truyền đắc lực cho đường lối cách mạng của Đảng về việc củng cố nền độc lập tự do của Tổ quốc. 11 năm bị giam cầm ở Côn Đảo, đồng chí nhất mực trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân; không chỉ liên tục tham gia chi ủy nhà tù, mà còn đóng góp trí tuệ quý báu cho việc xây dựng, củng cố tổ chức Đảng và giữ vững ngọn lửa đấu tranh nơi gông xiềng tàn bạo nhất của đế quốc Pháp ở Đông Dương. Ngày 23-9-1945, đoàn tàu của Ủy ban hành chính Nam Bộ rời Côn Đảo, chở đoàn tù chính trị 2.000 người, trong đó có đồng chí Lê Văn Lương trở về vòng tay chờ đón của đồng chí, đồng bào.

Tháng 10-1945, đồng chí Lê Văn Lương được cử làm ủy viên dự khuyết Xứ ủy Nam bộ; hai tháng sau, đồng chí được cử ra Hà Nội, giúp đồng chí Trường Chinh chỉ đạo báo Sự Thật và Nhà xuất bản Sự thật. Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí được Đảng tín nhiệm chỉ định làm Bí thư Văn phòng Thường vụ TW, ủy viên dự khuyết BCH TW Đảng (năm 1947), sau đó là Trưởng Ban Tổ chức TW thay đồng chí Lê Đức Thọ vào miền Nam công tác. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), đồng chí được bầu vào Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư TW Đảng, sau đó là Ủy viên chính thức Bộ Chính trị. Năm 1954, đồng chí làm Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Trọng nhân tài và lớp người đi trước, đồng chí tranh thủ được sự hợp tác nhiệt thành của cụ Phan Kế Toại trong Bộ Nội vụ, đóng góp tâm huyết cho Dân, cho Nước trong công cuộc xây dựng chính quyền mới của nước VNDCCH.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), đồng chí được bầu lại vào BCH TW Đảng và ở trong Ban Bí thư, điều hành công việc hàng ngày của Ban Bí thư bên cạnh Tổng Bí thư Lê Duẩn. Năm 1968, đồng chí thay đồng chí Lê Đức Thọ đi hội nghị Pa-ri, làm Trưởng Ban Tổ chức TW. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị và được phân công làm Bí thư Thành ủy Hà Nội. Dù bất kỳ ở cương vị nào, đồng chí Lê Văn Lương luôn luôn là một người cộng sản kiên cường, trong sáng, mẫu mực. Đồng chí Hoàng Tùng đã dành những dòng trân trọng khi viết về đồng chí Lê Văn Lương: “anh là người có bản lĩnh, không bao giờ khuất phục trước uy quyền, cần cù, giản dị, thận trọng từ việc nhỏ đến việc lớn, đối xử công bằng, có trách nhiệm, tình cảm đồng chí đối với mọi người. Sức thuyết phục của anh là sự chân thành, thẳng thắn, nghiêm khắc và thông cảm, hiểu thấu cả những chỗ yếu của con người mà đối xử khoan dung"(1).

Ảnh chụp lễ cưới ông Lê Văn Lương và bà Nguyễn Thị Bích Thuận tại Việt Bắc năm 1948 với Bác Tôn (người ngồi trước), các đồng chí Hoàng Quốc Việt (ngoài cùng bên phải), Trường Trinh, Lê Đức Thọ (từ trái qua). Ảnh: Vũ Năng An.Ảnh chụp lễ cưới ông Lê Văn Lương và bà Nguyễn Thị Bích Thuận tại Việt Bắc năm 1948 với Bác Tôn (người ngồi trước), các đồng chí Hoàng Quốc Việt (ngoài cùng bên phải), Trường Trinh, Lê Đức Thọ (từ trái qua). Ảnh: Vũ Năng An.



Tổ quốc hòa bình thống nhất, suốt 10 năm, từ 1976 đến 1986, ở cương vị Bí thư Thành ủy từ khóa VII đến khóa IX, đồng chí Lê Văn Lương đã mang hết sức mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng Thủ đô, chăm lo cuộc sống của nhân dân Thành phố. Đó cũng là thời kỳ Hà Nội hết sức khó khăn về đời sống và mọi mặt kinh tế - xã hội. Hàng tháng, Thường vụ phải chỉ đạo sao cho các Sở Ngành chạy đủ lương thực, thực phẩm, điện, nước, chất đốt cho nhân dân Thành phố, chưa kể nhà ở, y tế - giáo dục... đều ở trong tình trạng thiếu và xuống cấp trầm trọng cơ sở hạ tầng. Và người dân vẫn ghi nhớ hình ảnh đồng chí Bí thư đi kiểm tra các quầy bán lương thực ở các tổ dân phố, gần gũi, bình dị, sao cho dân được cung cấp đủ gạo, mì trong tháng, đỡ bị thiếu đói.

Trong điều kiện kinh tế - xã hội còn vô vàn khó khăn, nhưng với tầm nhìn xa của người lãnh đạo cao nhất Thành phố, hạ tầng GTVT đã được mở mang với những công trình trọng điểm: hoàn thành cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, mở rộng đường năm cửa ô, tổ chức ngành vận tải biển pha sông để đưa gạo từ đồng bằng Nam Bộ về thẳng cảng Phà Đen và đưa hàng từ Hà Nội vào đồng bằng Nam bộ. Nhiều ngôi nhà cao tầng ở các khu tập thể đã mọc lên ở nội thành và các cửa ô, đáp ứng một phần nhu cầu nhà ở cho nhân dân.

Với vị thế Thủ đô của đất nước, có bề dày 1000 năm văn hiến, Hà Nội được TW Đảng và Thành ủy đặc biệt chú trọng về văn hóa - xã hội, về sử dụng nhân tài. Tin tưởng và phát huy thế mạnh của đội ngũ trí thức Thủ đô, công tâm trong cách đánh giá và phát huy năng lực của cán bộ, đồng chí đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng cán bộ, trí thức văn nghệ sĩ.

Suốt đời tận tụy, trung thành cống hiến cho Dân, cho Đảng, đồng chí Lê Văn Lương đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng ngày 31-1-1989 và nhiều huân chương cao quý khác. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của đồng chí, chúng ta càng thấm thía sâu sắc khi đọc di cảo đồng chí để lại trong dịp kỷ niệm thành lập Đảng 3-2-1990:
“Tất cả cán bộ đảng viên chúng ta cần đem những gì tốt đẹp nhất của mình đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp của Đảng. Phải nâng cao củng cố Đảng, xây dựng Đảng thật vững mạnh, đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng do Đảng đề ra. Đây là thái độ đúng đắn nhất cần xác định nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Đảng quang vinh của chúng ta”.


28/3/2012
 ✯✯