Nhà họa sĩ Tô Ngọc Vân - Tố Hữu

Friday, September 16, 2011
_ Tố Hữu _


Nhà Anh, cuối phố Yết Kiêu
Chợ ngồi, rau quả sớm chiều, ngoài hiên
Bán mua, chào giá, trao tiền
Ai hay Anh tự cõi tiên, nhìn đời!

Phòng riêng, chẳng lọt nắng trời
Trông lên, chợt thấy tranh tươi bút thần
Dịu dang, người đẹp thanh tân
Nghiêng đầu bên huệ trắng ngần, tương tư...
Người hay mơ đó, thực hư ?
Năm mươi năm lẻ, tưởng như còn nàng!

Bâng khuâng lại nhớ đến chàng
Long lanh ánh mắt, nở nang miệng cười
Tuyệt vời, Tô Ngọc Vân ơi!
Tài hoa màu sắc, cho đời nên tranh.
Mũ vải mềm, mảnh áo xanh
Nẻo quê, xóm núi, bóng Anh đi về.

Đường dài kháng chiến mài mê
Chân Anh nào biết phút tê tái lòng
Anh đi, để giọt máu hồng
Dáng Anh lồng lộng cánh đồng Điện Biên!

5-3-1991

 ❧ ❀ ❧ 

Nguồn: Thi Viện.


Xem: BÀI THƠ TỐ HỮU VIẾT TẶNG TÔ NGỌC VÂN - Đinh Quang Tỉnh, 08/01/2011,13:32:41

NGHĨA TRỤ KIỀU KHẨU CHIẾM - Phạm Đình Hổ - (Nguyễn Chân dịch)

Thursday, September 15, 2011

Lại qua cầu Nghĩa Trụ 經 義 柱 橋 次 原 韻

Phạm Đình Hổ (范 廷 琥)
Thơ chữ Hán do Nguyễn Chân dịch ra Việt-Pháp-Nga



經 義 柱 橋 次 原 韻
范 廷 琥

又 從 義 柱 溪 頭 過
鷗 爪 依 依 篆 白 沙
吟 罷 舊 題 還 自 笑
窮 途 猶 自 步 當 車


KINH NGHĨA TRỤ KIỀU THỨ NGUYÊN VẬN
Phạm Đình Hổ

Hựu tòng Nghĩa Trụ khê đầu quá
Âu trảo y y triện bạch sa
Ngâm bãi cựu đề hoàn tự tiếu
Cùng đồ do tự bộ đương xa.

Dịch nghĩa:

LẠI QUA CẦU NGHĨA TRỤ HOẠ NGUYÊN VẦN
Phạm Đình Hổ

Lại theo đầu ngòi Nghĩa Trụ mà đi qua
Móng chim âu rành rành hằn trên cát trắng
Đọc xong câu thơ đề trên cầu khi trước lại cười mình
Cùng đường còn tự bước, đua với xe.


--------------------------
PHẠM ĐÌNH HỔ (1768-1839), người Hải Dương, bạn của nữ sĩ HỒ XUÂN HƯƠNG, đi thi nhiều làn chỉ đỗ Tú Tài. Làm quan đời nhà NGUYỄN, chức Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, Tế Tửu Quốc Tử Giám, Thị giảng Học Sĩ. Có nhiều tác phẩm về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí.



LẠI QUA CẦU NGHĨA TRỤ HOẬ NGUYÊN VẦN

Phạm Đình Hổ

Lại qua Nghĩa Trụ đầu ngòi
Móng chim vẫn rõ trên doi cát vàng
Thơ xưa đọc lại cười khàn
Cùng đường còn muốn đua quàng với xe!

Nghĩa Trụ đầu sông lại trở về
Dấu chim trên cát vẫn chưa nhoè
Thơ xưa đọc lại cười trong bụng
Ngõ cụt còn hòng rỡn với xe!

RÉPONSE AU POỀME MENTAL SUR LE PONT NGHIA TRU
PHAM DINH HO

Ici, au pont Nghia Tru on vient de s’en retourner
Les traces des mouettes restent encor sur le sable
On se rémémore aux anciens vers et rit sous cape:
À l’impasse à concourir avec la carrosse on se met!

NGUYỄN CHÂN 29.03.2012

ОТВЕТ НА ПОЭМУ О МОСТЕ НГИА ЧУ
ФАМ ДИНЬ ХО

Хожу опять вдоль этой реки.
Следы чаек на песках ещё видны.
Повторю старые стихи, щутя над собой:
В тупике хочется ещё
Пешком вступить в гонку с тройкой!

NGUYỄN CHÂN 30.03.2012 (Вольный перевод)


Nguồn: CLB tho van



NGHĨA TRỤ KIỀU KHẨU CHIẾM

Phạm Đình Hổ
(Nguyễn Chân dịch)



義 柱 橋 口 占
范 廷 琥

雲 擁 蜃 樓 橫 兩 岸
日 移 虹 影 印 長 沙
塵 中 誰 是 題 橋 客
拂 袖 歸 來 駟 馬 車


NGHĨA TRỤ KIỀU KHẨU CHIẾM (*)
Phạm Đình Hổ

Vân ủng thận lâu hoành lưỡng ngạn
Nhật di hồng ảnh ấn trường sa
Trần trung thuỳ thị đề kiều khách
Phất tụ qui lai tứ mã xa.(**)

Dịch nghĩa:

BÀI THƠ CHƯA VIẾT RA VỀ CẦU NGHĨA TRỤ
Phạm Đình Hổ

Mây ôm cầu ảo vắt ngang đôi bờ
Mặt trời dời bóng cầu in lên bãi cát
Trong đám bụi trần ai là khách đề thơ lên cầu
Phất tay áo trở về dong xe tứ mã.

————————
(*) Cầu bắc qua sông Nghĩa Trụ ở huyện Văn Giang, Hưng Yên.
(**) Điển tích : Tư Mã Tương Như, đời Hán, thuở hàn vi, khi đi qua cầu ở phía tây Tràng An có đề vào chân cầu: ”Nếu ta không ngồi xe, cưỡi ngựa thì không trở lại cầu này”.



BÀI THƠ CHƯA VIẾT VỂ CẦU NGHĨA TRỤ
Phạm Đình Hổ

Mây ôm lầu ảo ngang sông.
Bãi xa cát trắng cầu vồng sáng soi.
Chân cầu thơ khắc, ai người:
Sẽ xe tứ mà về chơi cầu này!


Mây ôm lầu ảo vắt ngang sông.
Cát trắng bãi xa bóng cầu vồng.
Thơ khắc chân cầu ai đó tá?
“Quay về bốn ngựa thẳng xe rong!”

POÈME MENTAL SUR LE PONT NGHIA TRU
PHAM DINH HO
Les nues couvrent le palais fictif reliant deux rives.
L’arc-en-ciel jète sur le lais son ombre qui dérive.
Qui a laissé sur le pilier de ce pont son écrit:
“Je reviendrai sans doute glorieusement ici!”


ПОЭМА ПРО СЕБЯ О МОСТЕ НГИА ЧУ
ФАМ ДИНЬ ХО
Покрывают мнимый дворец на реке облака.
Набросает свою сень на нанос радуга.
Кто оставил свои стихи на опоре моста,
Которые заявили бодро:
“Повернюсь на тройке несомненно!”


Nguồn: docago

Làng Nhân Vực với những kỷ vật liên quan đến học giả Phạm Quỳnh

Monday, September 12, 2011
_ Khúc Hà Linh _

Lời dẫn của Phạm Tôn:
Các bạn đã biết đôi nét về bà Lê Thị Vân, vợ nhà văn hóa Phạm Quỳnh qua bài Năm 16 tuổi, Phạm Quỳnh lấy vợ đồng tuổi Nhâm Thìn của Dã Thảo đưa lên blog chúng tôi tuần 4, tháng 11 năm 2009. Nay, chúng tôi xin mời các bạn về quê bà ở làng Nhân Vực để biết rõ hơn về bà, gia đình và quê quán bà, cũng như cái tình của nhà văn hóa Phạm Quỳnh với gia đình bên nhà vợ và quê vợ qua bài của Khúc Hà Linh đăng trên tạp chí Xưa và Nay, cơ quan của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 345 tháng 12-2009, các trang 34-35.

—o0o—



Từ đời Trần về trước, làng Nhân Vực, tổng Xuân Cầu thuộc huyện Tế Giang, đến đời vua Lê Quang Thuận mới đổi là Văn Giang. Năm Minh Mệnh thứ 13 (1831) Xuân Cầu thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Đó là vùng quê văn hiến lâu đời, truyền thống khoa cử. Trong làng có đình, chùa, văn chỉ, giếng cổ.

Làng Nhân Vực có đền thờ bà Đào Thị Ngọc Liễu, mẹ vua Lê Cảnh Hưng, tức là vợ vua Lê Thần Tôn. Đây là quê vợ học giả Phạm Quỳnh, nhà văn hóa đã từng là chủ bút tạp chí Nam Phong.

Theo sách Biên niên sử cổ trung Việt Nam (NXB Khoa học xã hội, 1987) thì Nhân Vực, Xuân Cầu xuất hiện từ thế kỷ thứ VII. Sử cũ chép, khi nhà Đường xâm lược nước ta, đã đưa dân Trung Hoa lưu vong trên đất Đại Việt đi khai khẩn đất hoang hóa để lập hương ấp mới. Ban đầu làng có tên là Tân Kiều, nghĩa là khách nước ngoài mới đến cư trú, sau đổi là Hoa Cầu. Xuân Cầu được thế giao thông thuận tiện, đi bộ chỉ non nửa ngày đường đã ra đến Thăng Long Hà Nội. Mà từ trong làng ra đường cái quan đi ngược về phía đông đến trấn Hải Dương cũng chỉ trọn một ngày đường. Vùng này gần chợ Vải của người Hoa nên làng có nghề nhuộm thâm và nghề buôn phát triển. Hàng vải thâm ở Xuân Cầu là sản vật quý, từng được vào trong câu hát:

Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu (tức Hoa Cầu – Xuân Cầu)
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm

Những ngày hội làng, có hát chèo, chơi chọi gà, đấu vật, chơi đu, rằm tháng 8 có múa sư tử, hát trống quân. Nhưng con trai con gái thích rủ nhau lên tận Nội Duệ, cầu Lim vui hát quan họ với liền anh liền chị hàng mấy ngày trời mới trở về.

Làng Nhân Vực ngày ấy có dòng họ Lê đến sinh sống từ trước đời vua Lê Quang Thuận cách đây 400 năm. Trong làng có gia đình ông Lê Văn Hùng (vợ tên là Hoàng Thị Ký) gốc nông dân, nhưng kinh tế khá giả. Ông Hùng làm ký lục có 4 người con, 3 gái 1 trai. Cô gái lớn Lê Thị Vân, vào tuổi 15 được tiếng đảm đang, sớm khuya tảo tần làm gương cho 3 đứa em để mẹ thầy không phải bận lòng. Vào tuổi 18 (Thật ra là 16 – PT chú), Lê Thị Vân do duyên trời sắp đặt, nhận lời lấy Phạm Quỳnh, chàng thanh niên đồng tuế, tuổi Nhâm Thìn (1892-1893) ở Hà thành, mồ côi cả cha mẹ. Tiếng là con ông ký, nhưng Lê Thị Vân không được đến trường không biết chữ. Nhưng bù lại rất thông minh có trí nhớ tuyệt vời. Những câu ca dao tục ngữ, truyện cổ dân gian, truyện Nôm khuyết danh đều thuộc lòng, sau này về sống với Phạm Quỳnh, bà đã tạo thêm nguồn cảm xúc, niềm mến yêu ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ trong tâm hồn của chồng và cống hiến cho sự nghiệp canh tân văn hóa, trong vai trò chủ bút tờ Nam Phong tạp chí nổi tiếng nước Nam…

Tháng 9 năm Kỷ Sửu chúng tôi về Nhân Vực, bây giờ thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ở đây được nghe những mẩu chuyện và được nhìn thấy những kỷ vật của gia đình Phạm Quỳnh.

Bức hoành phi cung tiến đình làng


Đình làng Nhân Vực khánh thành năm 1932. Phạm Quỳnh là con rể làng Nhân Vực bấy giờ đã thôi chủ bút Nam Phong tạp chí vào Huế làm quan đã được 5 năm (Thật ra là mới năm đầu – PT chú). Vào mùa đông năm Đinh Sửu (1937), với tư cách Ngự tiền văn phòng, Cơ mật đại thần kiêm Thượng thư Bộ Học, Phạm Quỳnh đi kinh lý Bắc Hà. Ông đã tranh thủ về thăm quê vợ, làng Nhân Vực. Lần ấy các bô lão trong làng được gặp ông quan Thượng Thư, cũng là giai tế của làng, trịnh trọng cung tiến đình làng một đôi câu đối và bức hoành phi. Nay câu đối bị hư hỏng, chỉ còn bức hoành sơn son thếp vàng với bốn chữ đại tự: Thông minh chính trực. Bên phải bức hoành khắc dòng chữ Hán: Bảo Đại Đinh Sửu đông (mùa đông năm Đinh Sửu 1937 triều vua Bảo Đại – TG). Bên trái hoành phi phía trên cao có hai dòng chữ: Tả đại Học sĩ lãnh Giáo dục bộ thượng thư, sung Ngự tiền văn phòng Tổng lý cơ mật đại thần Phạm Quỳnh, bái.


Bức hoành phi đã được treo trang trọng gian giữa đình. Đã qua hơn 70 năm trải qua bao nhiêu biến cố, những sự đẽo gọt của thời gian, rồi chiến tranh, rồi giông bão mà tấm hoành phi vẫn còn. Các cụ trong làng bảo rằng: mỗi lần làng quê vào đình đám, mỗi lần thắp hương, ngước trông lên tấm hoành phi, lại nhớ tới người con rể của làng, thấy bâng khuâng…

Các cụ kể, những năm chiến tranh, đình là kho quân sự nên không có ai được xâm phạm, vì thế đồ tế tự mới còn.

Chiếc khán thờ trong chùa làng Nhân Vực


Làng Nhân Vực còn có một ngôi chùa, cảnh quan thoáng đẹp. Chùa thờ Phật, nhưng ở đây có điều đặc biệt là còn có một cái khán sơn son thếp vàng. Đấy là nơi đặt bài vị gia tiên ông ký Lê Văn Hùng, nhạc phụ của Phạm Quỳnh.

Thấy chuyện lạ hỏi, thì được ông Đào Đình Khuynh (72 tuổi), Trưởng ban di tích LSVH đình Nhân Vực, xã Nghĩa Trụ cho biết:
Trong nhà họ Lê Văn có một cái khán thờ từ đời trước. Đến đời ông Lê Văn Tốn tức là em vợ Phạm Quỳnh là con trai trông coi hương hỏa. Sau ngày hòa bình lập lại 1954, gia đình con cháu ông Lê Văn Hùng vào Nam cả, nhà cửa ruộng vườn không có chủ. Khi cải cách ruộng đất năm 1955, chính quyền địa phương đã trưng thu. Ngôi nhà to đẹp dành làm nhà trẻ, sau là lớp học mẫu giáo. Còn ruộng đất chia cho nông dân. Riêng cái khán thờ của gia đình, nhân dân đã trân trọng đưa vào chùa làng thờ phụng. Ông Khuynh kể trong 5 bài vị đặt trong khám, chắc chắn có hai bài vị của song thân ông Lê Văn Hùng.

Trong rủi có may. Tấm lòng người Nhân Vực quả là nhân hòa, trọng nghĩa. Sau bao nhiêu năm chiến tranh ly tán, lũ lụt bão giông, nhờ có tấm lòng người Nhân Vực mà bây giờ kỷ vật nhà họ Lê vẫn được lưu giữ. Cũng theo ông trưởng ban, thì tại nghĩa trang nhân dân xã, mộ hai cụ được an táng tại đó, còn có mộ người con trai là ông Lê Văn Tốn (tức ông Cửu Xuân), em ruột bà Lê Thị Vân, vợ Phạm Quỳnh.

Lại thêm một chuyện nữa đối với gia đình Phạm Quỳnh – Lê Thị Vân, đó là cách nghĩa trang nhân dân không xa là nghĩa trang liệt sĩ của xã, nơi đang có phần mộ của liệt sĩ Lê Thị Tâm, con gái ông Lê Văn Tốn. Liệt sĩ Tâm là cháu gọi bà Lê Thị Vân bằng cô ruột. Bà Tâm là du kích đã anh dũng hy sinh trong trận chiến đấu chống giặc Pháp ngày 27/12/1946.

Làng Nhân Vực không chỉ có truyền thống văn hiến mà còn là mảnh đất Nghĩa Nhân!
K.H.L.


Hoàng Thái Hậu Đào Thị

_ Nhà văn, nhà báo Đào Ngọc Du _

Từ hàng trăm năm nay, ở vùng Nhân Vực, Nhân Thục, Đồng Tỉnh, Hoa Cầu thuộc trấn Kinh Bắc - Bắc Ninh xưa, nay là xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, người dân thường kể cho nhau nghe những giai thoại về bà Hoàng Thái Hậu Đào Thị.


Có câu chuyện rằng: Những lần bà đi làm đồng, hôm đó dù trời nắng hay trời mưa cũng đều có mây bay theo trên đầu, những người đi cùng lấy làm ngạc nhiên, bàn tán và hỏi bà: Mỗi khi thấy mây bay trên đầu có thấy gì khác không? Bà không cần suy nghĩ, đáp ngay:

Mây đen, mây trắng, mây vàng
Mây nào thì cũng làm tàn che ta

Nhiều người già trong làng lấy làm lạ cho rằng cách trả lời của bà có cái gì đó giống khẩu khí của những bậc đế vương.
Lại gặp một câu chuyện khác: Cha bà là ông Đào Phúc Kiên, mẹ là Đào Quý Tịnh, ngoài việc đồng áng, ông còn là một thợ mộc giỏi, lại có hoa tay vẽ tranh, ông thường vẽ tranh bán ở các chợ quê. Vợ mất sớm, ông phải chịu cảnh gà trống nuôi con. Để có thể nuôi thân, nuôi con, ông đã rời quê ra phố Nam Ngư, Hà Nội kiếm sống. Một hôm, triều đình tổ chức thi tuyển thợ giỏi và những người có hoa tay vào sửa chữa, trang trí các cung điện trong hoàng thành. Ông ghi tên xin thi và đề thi của ông là bức tranh vẽ quả dưa bở vùng quê ông. Tranh vừa vẽ xong thì đã có trống báo nộp bài, mà tranh vẫn còn ướt, bí quá, ông đem ra nắng phơi, những nét sơn vẽ co lại tạo ra những rãnh nứt loằng ngoằng, ông lo quá, nhưng không ngờ quan chấm thi lại rất thích và khen là đẹp.

Thế là bức tranh của ông được chọn, ông được tuyển vào cung làm việc, đi theo ông là cô con gái yêu Đào Thị, cô gái quê Đào Thị ở tuổi trăng tròn đã lọt vào mắt xanh nhà vua trẻ, Đào Thị trở thành tiệp nữ của vua Lê Thuần Tông. Ít năm sau, Đào Thị sinh được một hoàng tử, đặt tên là Duy Diêu. Đó chính là vua Lê Hiển Tông sau này. Bấy giờ, người dân quê bà lại tin vào câu chuyện mây bay trên đầu và bàn tán suy luận về câu chuyện đó khi bà còn sống ở quê như là một dự báo về số phận của bà.

Thêm một câu chuyện nữa: Có lần bà về quê, qua đò gặp người làng Nhân Vực, nhận ra người quen cùng làng, bà xin cho những người đó không mất tiền đò, thấy vậy, những người làng khác đi cùng cũng nhận mình là người làng Nhân Vực để được không phải trả tiền đò, vì thế đã gây ra rắc rối.

Để phân biệt những người làng Nhân Vực với những người làng bên, bà nghĩ ra một cách là phải làm sao cho người làng Nhân Vực khác với người các làng khác. Bà tâu với vua xin nhà vua ban cho người làng Nhân Vực một đặc ân, và nhà vua đã xuống chiếu cho phép tất cả người làng Nhân Vực được đội nón có quai đỏ và, đi đò không phải trả tiền.

Hoàng Thái Hậu Đào Thị sống vào thời vua Lê, chúa Trịnh, thời kỳ mà đất nước loạn lạc, giặc giã nổi lên khắp nơi, xã hội rối ren. Tuy vậy, bà vẫn sống mẫu mực trước vua và quan, quân triều đình, nuôi dạy hoàng tử sau này trở thành vua Lê Hiển Tông, vị vua cuối cùng của nhà Lê trị vì đất nước suốt bốn mươi sáu năm.

Bà là Hoàng Hậu, rồi Hoàng Thái Hậu nhà Lê nhưng nhà Trịnh lấn át, tiếm quyền vua Lê, bà phải chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ. Đến này nhiều người còn nhớ câu chuyện bà bị Trịnh Sâm trả thù: Một hôm bà thấy Trịnh Sâm ngồi ngang hàng với vua, bà nhắc: Chúa ngồi như vậy là không được, Trịnh Sâm ức lắm. Khi bà mất, nhà Trịnh trả thù đã hoãn việc phát tang, lấy cớ bận việc quân và ba năm sau nhà Trịnh mới cho cử hành lễ an táng bà. Không chỉ bà mà cả dân tộc Việt thời đó cũng chịu thiệt thòi, mất mát như bà.

Sau đó đất nước lại rơi vào nhiều cuộc chinh biến liên miên. Tiếp đến là những cuộc chống ngoại xâm của dân tộc. Do đó, các tài liệu lịch sử nói về bà như thần phả, đền thờ của bà bị tàn phá, thất lạc, đã hàng trăm năm nay chỉ còn trong truyền thuyết dân gian.

Tháng 4 năm 2011, tiến sĩ Nguyễn Đức Nhuệ đã tìm ra và biên soạn những tài liệu lịch sử chính xác về quê hương và sự nghiệp của bà, Viện sử học đã có văn bản ký đóng dấu, xác nhận.

Theo tiến sĩ Nguyễn Đức Nhuệ thì Hoàng thái hậu Đào Thị là vợ vua Lê Thuần Tông (1732-1735), mẹ vua Lê Hiển Tông (1740-1786), bà mất ngày mồng 5 tháng 5 năm Ất Mùi (1775) tại kinh đô Thăng Long, được an táng tại làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, Hà Nội – nay là phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.

Hoàng thái hậu Đào Thị, tên Thụy là Nhu Thận, quê gốc người làng Nhân Vực, xã Bảo Vực, huyện Văn Giang, thuộc trấn Kinh Bắc xưa. Sau đổi thành xã Thọ Vực, thuộc tổng Xuân Cầu, tỉnh Bắc Ninh (Xã Thọ Vực lúc đó có ba thôn: thôn Nhân Vực, thôn Nhân Thục, thôn Thủ Pháp) nay là xã Nghĩa Trụ huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Khi đã là Hoàng hậu, rồi Hoàng thái hậu, bà vẫn sống gần dân, gắn bó với quê hương. Đến nay người dân Nghĩa Trụ cũng như dân trong vùng vẫn còn nhớ câu ca mà mỗi lần về thăm quê, bà thường đọc cho các bô lão trong vùng nghe:

Đến nay đã là vợ vua
Ta vẫn còn thích canh cua đầm lầy

Đã hai trăm ba mươi sáu năm kể từ ngày bà mất, nhưng hình ảnh Hoàng thái hậu Đào Thị - người vùng Nghĩa Trụ còn gọi là Đào Thị Ngọc Liễu – vẫn sống trong lòng người dân Nghĩa Trụ cũng như người dân đất Việt.




Nhà văn, nhà báo Đào Ngọc Du
Trường ban lịch sử truyền thống họ Đào Việt Nam



Xem thêm: Nhu Thuận hoàng hậu - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Làng Nghĩa Trụ thử hài

_ Truyện ngắn Phạm Thuận Thành _

Huyện ùm lên vào một sớm mù sương đầu năm.

Số là mụ Ếm dắt trâu ra sông Nghĩa Giang cho uống nước sớm và tranh thủ giặt giũ chậu quần áo đầy có ngọn. Nước sông buổi sớm hơi lạnh nhưng tinh khiết. Mới lại trâu nhịn nước cả đêm rồi. Đang ngoan ngoãn đi đến sát mép nước thì con trâu chùn lại không chịu bước. Nó vùng vằng, khuỵch sừng vào người, mõm phì phì như hổ mang bành. Mụ Ếm gò thừng giục:

- Trâu, đi nào, tao đang vội đây!

Con trâu vẫn xuống tấn tại chỗ. Mụ Ếm vòng ra sau lấy thừng quất vào mông đen đét.

- Đi! Sao hôm nay mày đổ đốn thế!

Đáp lại vẫn là những cú khuỵch sừng hết sang phải lại sang trái. Chẳng lẽ dưới sông có ba ba thuồng luồng hay sao. Bà xuống kiểm tra, nếu không có gì thì chết với bà đấy, nghe chửa, đồ con tườu.

Mụ Ếm tụt váy áo lội bòm bõm xuống sông. Vệt nước đục cuộn lên theo bước chân. Con sông Nghĩa Giang này vào mùa xuân, người lớn có thể kiễng chân lội qua được. Về mùa nước nó cũng chỉ rộng đáng bậc cháu chắt so với sông Đuống, sông Cầu. Nhưng dân Nghĩa Trụ từ nghìn đời nay vẫn trân trọng gọi nó là sông. Nó là nguồn nước chính tưới tiêu ruộng đồng, nơi cung cấp tôm cá trai hến và là nơi tắm táp giặt giũ. Mới lại, cả vùng lúa mênh mông này toàn ngòi, rãnh với phai làm gì có thứ nào đáng mặt so với Nghĩa Giang. Mò mẫm hồi lâu mụ Ếm chỉ tìm được một vật lạ duy nhất là chiếc giày da khá mới. Mụ ngước nhìn về phía cây cầu gỗ xộc xệch răng bà lão ước chừng, chắc là ai đó vô ý đạp phải chỗ thủng tụt mất giày rồi bị lạng về đến đây. Mụ Ếm mang giày lên dí vào mõm trâu hỏi:

- Có cái này mà sợ à. Rõ là đồ trâu đồ bò.

Con trâu sì sì vẻ biết lỗi, rồi tự bước ra sông vục đầu uống ì ọp.

Cầm chiếc giày lạ trên tay mụ Ếm vẩn vơ nghĩ. Con trâu không nhìn thấy giày sao lại biết, lại sợ? Thế mới lạ. Việc này giông giống việc gì ấy nhỉ? Sao tự dưng chợt không nghĩ ra. À, nhớ rồi, giống việc ngựa sợ hài. Hình như cũng ở đoạn sông này đây. Thế này chắc là mình được trời đất dun dủi chọn làm việc gì đây. Xưa vì có chuyện ngựa sợ hài mà chị em nhà Tấm (à quên, xin thánh tha lỗi con xin được sửa là Đớn) và Cám được nhập cung. Còn mình thì được gì đây. Phải mang ngay chiếc giày này về trình trưởng thôn mới được.

*
* *

Làng Nghĩa Trụ nằm lọt thỏm giữa vùng đồng trũng năm nghìn mẫu. Từ làng ra đường cái quan phải qua mấy xứ đồng. Con đường như cái cuống nhau nối bào thai làng với đất nước. Có điều cái cuống nhau này bao đời nay vẫn thuần khiết đồng đất làng nên vào ngày mưa thì trơn toẽ ngón chân, vào ngày nắng thì vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh, còn vào ngày râm thì dù ai có niệm thần chú "trời mưa tránh trắng, trời nắng tránh đen" vẫn cứ bị sa vào ổ bùn. Trước khi vào làng người ta còn bị thử thách bằng cây cầu khỉ vượt sông Nghĩa Giang. Vác xe mà lần. Mãi đến thời Hợp tác xã toàn xã mới bắc được cây cầu gỗ răng bà lão để tăng năng suất lao động xã viên. Trải mấy mươi năm cầu đã lên lão, dân làng chẳng quan tâm lắm vì họ quen lội sông từ ngày lập làng rồi. Vừa mát mẻ vừa không sợ tuột chân sẩy tay lăn tòm xuống nước. Thế mới có chuyện ma trêu, người Nghĩa Trụ ai cũng thuộc. Cái thời lão Ấm, cha đẻ mụ Ếm còn khoẻ, ngày nào cũng lọ mọ chài cá sớm. Cái hôm đại hàn nước buốt kim châm lão vẫn đi kiếm. Lão biết, càng giá càng nhiều chép. Tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông. Vừa giăng lưới xong thì có tiếng gọi:

- Bác chài ơi giúp em qua sông với.

Lão Ấm nhìn lên cầu, thấy có cô gái trẻ mặc bộ đồ trắng toát đang gần như bò trên cầu.

- Bác cõng em qua sông, muốn trả công gì em cũng chiều.

Lão Ấm thực ra vừa "trót dại" với vợ trước khi ra sông, vốn liếng tự biết chẳng còn bao, nhưng được cô gái trẻ khuyến khích nên ra tay anh hùng giúp mỹ nhân. Do phải cõng người nên lão Ấm bị ngập nước ngang lưng, nước ngấm ướt gần hết áo. Răng giã gạo. Lên bờ, cô gái bảo:

- Nào bác làm gì thì mau mau lên kẻo trời sáng.

Lão Ấm không khách khí, nằm luôn lên người cô gái hòng tìm chút hơi ấm. Ai dè lạnh như khối băng. Của quý của lão sun vào như đỉa gặp vôi không thể "làm gì" được. Dở nhất là cảnh trên bảo dưới không nghe này. Lão thở dài đánh thượt, thò tay xoa ngực vớt vát tý chút. Nhưng giời ơi, gái trẻ sao ngực lại nhão nhoét thế này. Bất giác lão quở:

- Ngực nát như ngực ma ấy!

- Thì đây là ma mà lại.

Lão Ấm đờ mắt nhìn lại thì đớ người nhận ra mình nằm trên bộ xương, cái đầu lâu có hai hốc mắt đen ngòm. Kinh hãi quá lão Ấm ù té chạy, mồm gào "ma, ma" nhưng không phát thành tiếng. Tóc gáy dựng ngược cả lên. Chạy về đến nhà mà vẫn nghe rõ tiếng chân chạy huỳnh huỵch ngay sau lưng. Chuyện lão giấu kín, mãi đến khi đặt tên con gái là Ếm lão mới kể chuyện ma trêu mà đặt tên thì người làng mới biết. Vậy mà người làng vẫn không bỏ được thói quen lội sông.

Nhưng chuyện ma trêu ở đoạn sông này chưa thể sánh được với chuyện hoàng tử được hài, rồi mở hội thi hài kén được vợ. Chính cung hoàng hậu Thị Tấm nay vẫn được thờ làm thành hoàng của làng (xin đức thánh Thị Tấm xá tội, đáng lẽ phải gọi chệch theo lệ làng là Thị Đớn nhưng kẻ hậu sinh này sợ như thế thì người đời không hiểu cho Thị Đớn cũng là Thị Tấm. Còn con đĩ Cám lười biếng, xảo trá, độc ác tất nhiên chẳng cần kiêng khem gì, cứ thẳng tên tục Cám mà phết). Cứ tưởng đức thánh Thị Tấm cứ đàng hoàng tĩnh tọa trong niềm tôn kính của dân làng, thì một ngày kia có kẻ láo lếu là thầy khoá hỏng thi Nghĩa Giang Phu Tử về làng không lội sông như thảo dân lại đi cầu khỉ, rồi chẳng may trượt chân ngã xuống sông, giày tuột lạng đâu mất, thế là thầy khoá hỏng thi về nhà mài mực viết liền một lèo bài luận Ba vạn tám ngàn chữ về việc "Thí hài kén vợ". Thầy lớn giọng chê bai hoàng tử là kẻ thấy chân không thấy người, lấy vợ kén chân chứ không kén nhan sắc, hình dung, nết người. Ra thế nghĩa là chê Đức thánh Thị Tấm vừa mất nết, vừa mất người à. Ấy vậy mà lũ dân đen lại thích, lại truyền tụng mới lạ chứ lị. Bấy giờ có vị Hàn lâm học sĩ hưu trí (hình như chính là người theo lệnh của Chính cung Hoàng hậu Thị Đớn chắp bút nên thiên truyện "Tấm Cám") đọc được bài luận "Thí hài kén vợ" đã nổi máu lên liền sai người mài mực, sắp giấy hoa tiên để ngài thảo một tấu biểu dâng triều đình kết tội Nghĩa Giang Phu Tử, dụng tâm phá nát thuần phong mỹ tục. Nhân thừa giấy thừa mực, lại đang sẵn cảm hứng giữ gìn thuần phong mỹ tục ngài liền viết một hồi xong bài luận dài Ba vạn chín nghìn chữ "phản biện" Nghĩa Giang Phu Tử, cho rằng thảo dân làm sao hiểu được suy nghĩ, tình cảm của đế vương, cũng như dê cừu làm sao hiểu được suy nghĩ, tình cảm của sư tử. Tiếp được bài luận "Dê cừu bất thị sư tử" này thầy khoá Nghĩa Giang Phu Tử chỉ cười mim mỉm, đoạn viết luôn bài luận "Dê tính luận" ba vạn chín nghìn chín trăm chữ thẳng thừng chê bai kẻ hủ nho chỉ biết học để mũ cao áo dài, ám chỉ vị Hàn lâm học sĩ. Tiếc rằng Hàn lâm học sĩ tiếp nhận bài luận này thì bỗng phát bạo bệnh chưa kịp có bài luận đáp lại đã chết. Có kẻ đầy tớ phản chủ phọt ra ngoài cái tin đọc xong bài luận ngài uất quá hộc ba đấu máu tươi chỉ kịp trăng trối câu "loạn rồi" rồi chết, chứ không phải chết vì bệnh tật gì đâu. Vị thái y triều đình về khám nghiệm cũng khẳng định ngài không có khối u, không có con hát i vê, không phải do sốc thuốc phiện, không phải trúng độc trúng phong. Ngài chết do hộc ba đấu máu tươi. Thế là Nghĩa Giang Phu Tử thu được toàn thắng. Cuộc tranh luận Nghĩa Giang Phu Tử - Hàn lâm học sĩ được kẻ sĩ thời ấy đánh giá rất cao, nào là tạo được không khí dân chủ, nào là nêu cao được tính học thuật, nào là mở ra trang mới cho văn đàn. Ba bài luận "đã thâu tóm hết chữ nghĩa thiên hạ" đáng là mẫu mực để sĩ tử đời sau học tập.

Lại nói về việc Trưởng thôn Nghĩa Trụ nhận được chiếc giày và tình tiết "trâu sợ giày" giống việc ngựa sợ hài khi trước, nhận định đây là việc tiền duyên tiền kiếp liên quan đến thành hoàng Đức Thánh Thị Đớn, nghĩa là liên quan đến vận mạng dân làng, nên liền triệu tập hội nghị Quân dân chính bất thường. Mụ Ếm được đặc cách mời dự làm nhân chứng.

Thoạt nhìn chiếc giày Bí thư đoàn đã nói:

- Giày khủng bố da mềm xi nâu, mốt thời thượng Âu-Mỹ

Thôn đội trưởng dè dặt:

- Thám báo, Phun-rô cũng đi giày khủng bố. Phải chăng bọn "Đề Ga" tung cả người ra đây?




Trưởng công an xem xét kỹ chiếc giày rồi mới nhận xét:

- Giày mới, ngoại cỡ, mác "Made in Italian". Có thể khẳng định người đi giày là đàn ông chân cực to, có thu nhập cao, và rất có thể là người Tây đi giày Tây chứ không phải người ta đi nhầm giày Tây. Vậy người này đến làng ta với mục đích gì mà không đi theo đường công khai có đón rước trình báo. Liệu có thể là móc nối các phần tử đi nhầm giầy Tây còn nằm im chờ thời không? Hay có thể bí mật quan sát địa thế để chuẩn bị thuê đất đặt nhà máy? Hay có thể chỉ đơn giản là đi tìm "gái sạch" thôi? Tôi đề nghị mở cuộc điều tra quy mô lớn làm rõ vấn đề vì tình huống nào xảy ra cũng đều ảnh hưởng trầm trọng đến vận mệnh dân làng, đúng như đồng chí Trưởng thôn đánh giá. Là địch thì có biện pháp bảo vệ an ninh. Là bạn làm ăn thì chuẩn bị tâm thế thương thuyết giá đất và giải phóng mặt bằng. Lưu ý thêm đây là vấn đề nhạy cảm dễ thành điểm nóng, kinh nghiệm nhiều nơi từng có khiếu kiện tập thể, vượt cấp, kéo dài. Còn là kẻ chơi gái thì có biện pháp cảnh báo, giáo dục con cái và kiểm soát ngăn chặn nạn HIV-ết.

Hội trưởng người cao tuổi đề nghị:

- Nếu quả thật có chuyện trâu sợ giày giống việc ngựa sợ hài thì có nghĩa là có quý nhân đến làng. Vậy trước hết ta hãy sắm một cái lễ tươm tươm một chút cáo thánh cầu an là hơn cả.

Trưởng ban mặt trận đề xuất:

- Thực hư thế nào chưa rõ, ta nên học người xưa mở hội thử giày ,và từ nay lấy đây là lễ hội truyền thống độc đáo của làng. Chẳng gì làng ta đã từng tổ chức hội thử hài để lại đậm dấu ấn trong dân gian và lại đang thờ Đức thánh Thị Đớn cả nước biết tiếng. Khôi phục được hội thử hài vừa đem lại danh tiếng cho làng, vừa nêu cao được nét bản sắc văn hoá dân tộc. Rồi đây khách thập phương, khách du lịch sẽ đổ đến tấp nập, kinh tế sẽ trỗi dậy chứ còn tìm đường nào nữa.

Ý kiến của trưởng ban mặt trận được các vị đại biểu sôi nổi thảo luận ngả theo. Trưởng thôn tóm lại:

- Lâu nay ta có vốn mà không biết phát huy, thật tiếc. Nay ta sẽ phát huy hết nội lực. Sẽ có lễ ra đình. Sẽ có hội thử hài. Hội tổ chức đúng ngày đình đám vào đầu tháng sau. Ngay từ bây giờ ta đã phải lo công tác chuẩn bị. Hội phải thật ấn tượng. Giao cho ban công an bảo quản nghiêm cẩn chiếc giày, ai nhận cũng không cho xin, phải chờ qua hội thử hài mới trả, hơn nữa, còn trao phần thưởng của làng thật trọng thể. Giao cho văn hoá thông tin lo tuyên truyền cổ động hâm nóng lễ hội ngay từ bây giờ. Giao cho nông dân... Giao cho phụ nữ... Giao cho thanh niên... Cuối cùng là việc của mụ Ếm, mụ sẽ dắt trâu từ bờ sông theo sau đội rước hài về đình. Yêu cầu cả trâu cả người phải trang điểm rực rỡ. Thế nhé !
*
* *
Nghe tin làng Nghĩa Trụ mở hội thử hài, dân hàng phủ lườn lượt đến xem. Ô tô, xe máy nối đuôi nhau cào bụi ở đoạn cuống nhau. Rồi dồn ứ bên cầu răng bà lão. Đội Cờ Đỏ mau mắn đóng cọc chăng thừng thành bãi gửi xe độc quyền, lấy giá vé theo mức hội Lim, hội Gióng. Chồng mụ Ếm thấy khách run rẩy qua cầu liền hạ con thuyền Nô-ê phòng lụt trên xà nhà xuống chở khách. Mấy bà tháo vát sai con cắm cọc chăng bạt bày bán quà, chè đỗ đen suốt từ bãi đỗ xe về đến tận đình làng. Trưởng thôn đi kiểm tra gật gù: kinh tế trỗi dậy từ du lịch chứ đâu xa. Mà kinh tế du lịch là công nghiệp không khói cơ đấy, ít đầu tư, ít hại môi trường mà thu lợi lớn. Khách đến với hội thử hài cũng nhẹ bước chân vì cánh văn hóa thông tin đã mắc thêm loa, lại chọn phát toàn bài ca có chủ đề giày dép nổi tiếng. Nào là "Quần lĩnh áo the mới, tay cầm nón quai thao, chân đi đôi guốc cao cao". Nào là "Đôi dép cao su, đôi dép Bác Hồ, Bác đi ở chiến khu mới về". Nào là "Ta vượt trên triền núi cao Trường Sơn, đá mòn mà đôi gót không mòn". Trưởng thôn gật gù hài lòng. Cánh văn hoá thông tin làng ta có tính chuyên nghiệp, thạo việc ra phết đấy chứ.

Đến giờ hành lễ mụ Ếm mặc áo tứ thân ngũ sắc, giày thêu kim tuyến, khăn vấn hồng, yếm đào, mặt hoa da phấn phớn phở dắt con trâu khoác áo choàng tua kim tuyến theo đội rước giày, chính chiếc giày trâu và mụ phát hiện ra. Mụ có quyền phớn phở lắm chứ, vì mụ đâu chỉ phát hiện ra chiếc giày, mà phát hiện ra cả hội thử giày này đấy chứ.

Trong khi mụ Ếm phớn phở dắt trâu đi thì từ một mảnh chĩnh vỡ ở bờ tre ao Cả gần đình làng xuất hiện một làn khói trắng mỏng manh bay lên. Làn khói bay theo đoàn rước hài. Khi chiếc giày được trịnh trọng đặt lên bàn thử trên sân khấu mới dựng trước sân đình thì có ai đó gióng trống rung chuông để đội rước thánh ra khai hội vào việc. Làn khói lượn một vòng trên đầu mụ Ếm rồi tụ vào người mụ mất hút. Mụ Ếm rùng mình ớn lạnh, mặt ngơ ngáo, mắt long lanh đảo điên. Rồi như một diễn viên tuồng ưu tú mụ Ếm bật cười khanh khách rẽ đám đông chạy lên sân khấu cướp diễn đàn. Dải áo ngũ sắc phấp phới lượn theo như hình làn khói mỏng bay khi trước. Mụ hoa chân múa tay mấy vòng, đoạn kiểu cách hai tiến một lùi đến gần chiếc giày. Kịch hơn cả kịch. Mụ Ếm ngắm nghía soi xét, rồi ngửa mặt ngưỡng thiên cất tiếng du dương:

- Bớ người ta! Ta ra đây cũng nên xưng danh trước. Thị Cám làng Nghĩa Trụ là ta. Mấy trăm năm qua ta chìm trong oan khuất nên hồn chưa siêu thoát. Nỗi oan đời ta từ hội thử hài. Ta chờ mãi, chờ mãi đến hội thử hài lần thứ hai này mới được phép giãi bày oan khuất. Bớ người ta! Nhà ta có hai chị em, Cám ta là em, con gì ghẻ của Tấm. Ta bé bỏng lại bấy bớt, tất nhiên việc đồng áng việc nhà dồn hết lên vai mẹ ta và chị Tấm. Với ta chỉ cần biết ăn ngủ, biết coi nhà đã là ngoan. Những khi rỗi việc đồng ta theo chị Tấm đi xúc tép ngoài sông cho vui chị đâu khiến ta mang giỏ. Thỉnh thoảng chị ném cho con sinh sôi để ta nghịch cho đỡ chán. Chị bảo "Sinh sôi lớn thành chuồn chuồn bay lên trời đấy". Ta hỏi: "Có ăn được không". Chị bảo: "Ăn được, béo ngậy đấy". "Ăn thế phí mất con chuồn chuồn chị nhỉ". Ta như thế mà người ta nỡ gán cho lười làm, lại còn lừa chị đầu chị lấm chị ngụp cho sâu để trút sạch giỏ tép của chị. Cái hôm ta khệ nệ mang giỏ tép về là do hôm ấy xúc được ít, chị bảo ta mang về trước để mẹ rang ăn cơm kẻo muộn. Hôm ấy mẹ có mắng chị mấy câu vì sợ ta bị lấm bẩn và sợ nghịch tép bị dây mùi tanh. Có thế thôi mà người ta vẽ rắn thêm chân, cứ theo câu "bánh đúc không xương" mà đổ xấu cho mẹ con ta. Người đời nghe thì thương Tấm lắm, ghét mẹ con ta lắm. Khi ta hơi lớn, tuy đã tập làm đồng nhưng đâu có thể tháo vát như chị. Bù lại ta khéo may vá thêu thùa. Ta thêu đôi hài cho ta, cũng thêu cho Tấm đôi hài tương tự. Hội làng năm ấy mẹ và chị còn phải dọn dẹp nấu nướng, ta xỏ hài lỉnh đi chơi trước. Chỉ là muốn khoe hài thôi. Ta đi ra đình. Ta đi ra chùa. Ta qua chợ. Ta sang xóm trước vòng về xóm sau. Rồi ra sông. Mọi ngày đi cầu chân không trơn trượt, nay có hài chắc đỡ trơn hơn, thế là ta quyết thử xem sao. Vừa đi vừa ngắm hài mãn nguyện. Bất chợt hài mắc mấu tre làm ta trượt chân suýt ngã. Trong lúc luýnh quýnh hài bên trái tuột khỏi chân rơi xuống nước. Như con thuyền nhỏ nó lững thững trôi một đoạn rồi chìm nghỉm. Tức phát khóc lên được. Ta đành thập thễnh quay về, tính lấy hài của chị, chẳng gì cũng là hài do mình khâu được. Về đến nhà mẹ và chị đã đi rồi. May quá chị quen đi đất nên chẳng buồn xỏ hài đi hội. Hài rộng, ta phải độn thêm vải quấn vào bàn chân mới đi vậy được. Ra đến đình đang xảy ra hội thử hài rồi. Nhận ra hài của ta, ta sấn lên xin lại. Người ta cười ầm lên bảo nhận vơ là vợ thằng nhân, nó cho ăn bún nó vần cả đêm. Ta xấu hổ quá định bỏ chạy. Đúng lúc ấy chàng đứng chắn trước mặt, cầm tay ta mời thử hài. Người ta nóng như bị sốt. Nhưng hỡi ơi, hài của ta khâu vừa khít chân ta, thế mà lúc thử lại lọt thỏm. Đó là chân ta quấn vải nên bị bó lại. Cái chính là vải làm hài ngâm nước đã mềm ra, lại bị nhiều chân to thục vào làm dãn ra. Chàng bảo: hài này giống hài em đang đi, nhưng là hài của người lớn hơn chứ không phải của em. Em đừng buồn nhé. Người ta lại cười ầm lên hát nhạo: chân ải chân ai, lọt thỏm thế nai, cho truyền người khác. Ta chạy về khóc tức tưởi. Hài của ta sao chàng bảo của người khác. Cuối buổi ta giật mình thấy chàng đến nhà. Tưởng chàng đã chịu biết hài ấy là của ta. Hình như miệng ta đã cười tươi. Nhưng không, chàng dắt tay chị. Hóa ra chính chị đã đi vừa hài của ta. Chàng muốn chị đi cả đôi. Tất nhiên chị không thể đi vừa chiếc còn lại. Tất nhiên ta xỏ vừa như in. Ta kể cho chàng biết chuyện khâu hai đôi hài, chuyện ban sáng leo cầu tuột hài. Chàng cho đón luôn cả ta. Chị là Đông cung, ta là Tây cung. Bấy giờ ta còn bé, chị đã là thiếu nữ phổng phao nên chàng chỉ nhất yêu mình chị. Chị cũng quý yêu ta lắm. Chị luôn bảo nhờ em khéo tay thêu hài, nhờ em làm rơi hài mà hai chị em mới được sung sướng vinh hiển thế này. Ta sượng sùng chỉ bảo đó là duyên lạ, là số trời định thế. Đến ngày ta dậy thì chàng bắt đầu chú ý và năng đến Tây cung hơn. Chị hậm hực bóng gió, gặp ta là quăng thúng đá niêu. Ta sợ không dám sang gặp chị nữa. Ta tưởng chị có bầu nên thay tính đổi nết thế. Thấy bảo người có bầu thì khó ở. Rồi chàng cầm quân nam chinh. Liền đó có người tố cáo ta làm hình nhân thế mạng mưu hạichính cung hoàng hậu tranh quyền nhiếp chính. Ta bị kết tội tùng xẻo. Chị ngồi trên ngai chăm chắm nhìn ta chịu đau đớn đến chết. Chỉ đến khi ta thật chết rồi, chị mới vấn vội vành khăn trắng khóc hờ đứa em dại dột, ác độc. Hàn lâm học sĩ dựa vào đó viết lên câu chuyện ác giả ác báo do ta đáng tội chết cả trăm lần. Ta chết rồi biết cãi làm sao. Văn võ trong triều ai dám bênh ta để mà mang vạ tru di tam tộc. Ta toàn thua thiệt. Thua trong hội thử hài. Thua trong chốn hậu cung. Thua trong miệng thế gian. Thua cả sau khi chết không người thờ cúng. Bao năm qua ta chỉ là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre chứ đâu được là chuông khánh như người đời vẫn giễu. Bớ người ta! Nỗi oan của ta ai đã thấu hiểu chưa.

Trong khi mụ Ếm đang lên đồng thì các cụ ban khánh tiết đã rước Đức thánh Thị Đớn ra đến nơi khai hội. Mụ Ếm bỗng rú lên khủng khiếp cứ như đang bị tùng xẻo đến chết. Các cụ vén khăn che mặt tượng thánh lên, nhưng lạ lắm, khăn dính chặt như bị sơn bết lại, từ rìa khăn nhỏ ra từng giọt nước đỏ như máu!
Hội thử hài làng Nghĩa Trụ đã rã đám mà vẫn chưa tìm được chân nào xỏ vừa giày. Mụ Ếm đòi giày nhưng làng không cho.


Thơ Cao Bá Quát

Sunday, September 11, 2011

Cao Bá Quát: về giữa tử sinh

[...]
Ngoài ra còn có giai thoại khác kể rằng: sau khi bị Nguyễn Bá Nghi bắt, Cao Bá Quát lại được cứu thoát nhờ dân chúng và bạn bè đánh tráo tù nhân. Cao Bá Quát cùng mẹ già và hai con trai trốn đi được bằng thuyền. Trong cuốn “Cao Chu Thần Thi Tập” do Sa Minh Tạ Thúc Khải tuyển dịch có chép hai bài thơ, ý tứ gần như để tả lại câu chuyện trốn tù này của Cao Bá Quát. Tuy chưa có bằng chứng xác thực, chúng tôi cũng sao chép lại nguyên bài thơ trang 464,465:

TỴ ĐỊA
Phục thử huề gia khứ
Phiêu nhiên mạn bắc hành
Thăng Long phiến vân viễn
Nghĩa Trụ nhất châu khinh
Vô lộ qui hương tỉnh
Phòng nhân thức tánh danh
Xuân Cầu, Đồng Tỉnh khúc
Vị hạ phú nhân tình


Dịch nghĩa:
NƠI Ở LÁNH MÌNH
Lại cũng đem cả gia quyến đi,
lan man nhằm hướng bắc mà đến.
Áng mây Thăng Long đã xa cách,
một thuyền Nghĩa Trụ cũng nhẹ trôi.
Đã không còn đường về quê làng,
lại còn phòng người biết tên tuổi nữa.
Những khúc hát ở làng Xuân Cầu, Đồng Tỉnh,
cũng chưa lúc nào nhàn rỗi để ngâm nga.


PHIẾM NGHĨA TRỤ GIANG
Tà nhật mãn tùng bạc
Biển châu nhiễu trúc phù
Kiều khuynh dư thạch trụ
Thủy trọc đái hà lưu
Thiển chữ liên quyền lộ
Ngưng ba xuất một âu
Khước tư phi điể lạc
Binh các kỷ thời hưu


Dịch nghĩa:
DONG THUYỀN SÔNG NGHĨA TRỤ
Mặt trời đã dọi khắp cả bụi lùm,
mà coi vẫn mỏng manh;
chiếc thuyền thì quanh theo khóm trúc mà nổi trôi.
Cầu đã nghiêng ngả rồi mà cột đá còn trơ đó,
giòng nước đục chảy theo con sông.
Chim cò kia thì cong mình đứng trên vũng cạn,
chim âu nọ thì chìm nổi giữa lớp sóng lừng đừng.
Nhân đó mà nghĩ đến bày chim kia vui vẻ liệng bay mà hiện giờ riêng ta lâm cảnh lửa binh, biết khi nào mới hết.

Đất tình

_ Võ Xuân Tường _

Vùng đất này thuộc phủ Hải Tần xưa, nơi có chợ Huê Cầu, một chợ cổ xưa nhất được hình thành cùng với cộng đồng người Việt ở vùng châu thổ này. Chợ nằm trên ngã ba sông, nơi tụ hội của hàng hóa bốn phương: Từ biển lên, từ núi xuống, từ các miền quê đỗ về. Dọc hai bên bờ sông, những nương dâu xanh mướt ngút ngàn. Khi chiều về, mặt trời rơi xuống lòng sông, ánh vàng long lanh hắt lên trên những chiếc nón quai thao làm lúng liếng thêm những đôi mắt đa tình của các cô gái giặt lụa bên sông. Từ cái thuở xa xưa con gái vùng này đã nổi tiếng đẹp, đa tình và mắn đẻ. Các nhà địa kinh tế khi giải thích sự đô hội phồn hoa của vùng Huê cầu, chỉ nhấn mạnh nơi đây là trung độ của các tuyến đường, nơi giao nhau của các tuyến đường thủy bộ, họ quên mất sự níu giữ mãnh liệt của cái tình đất, tình người xứ này. Đã nhiều đời nay Huê Cầu không chỉ là phiên chợ quê của những người buôn bán nữa mà còn là nơi hội tụ của những tao nhân mặc khách, nơi hò hẹn của những mối tình. Không ít người "Đến đây rồi ở lại đây..." để lại những nỗi bâng khuâng nhung nhớ nơi chốn quê nhà "Ai đi Đông Tỉnh, Huê Cầu/ Để thương, để nhớ, để sầu cho ai..."

Phủ lị của Hải Tần xưa đặt ở phía bên kia sông, trên một khu đất cao, quay mặt nhìn sang chợ Huê Cầu bên này. Hai cây bàng to cỡ mấy người ôm rủ bóng che khuất mặt tiền của dinh quan phủ, phía chợ nhìn sang, giữa hai hàng phi lao vi vút, những bậc tam cấp đồ sộ dẫn thẳng lên khoảng sân rợp mát đi vào cửa quan một màu đỏ tía. Sau cách mạng, trong hệ thống hành chính của chính quyền mới không có cấp "Phủ", chỉ có cấp huyện, huyện lớn, huyện nhỏ đều gọi chung một từ là "Huyện". Thoạt đầu vẫn giữ nguyên tên là Hải Tần - huyện Hải Tần, sau này gần một thế kỉ của các cuộc cách mạng và cải cách, tách ra, nhập vào... với nhiều tên gọi khác nhau, mấy năm nay huyện cũ được tái lập và đang đựợc ổn định ở cái tên Tân Hải, như vậy so với trước cách mạng, từ sau được đảo lên thành từ trước và xóa bỏ được một dấu huyền.

Hải Tần là vùng đất gạo trắng nước trong, tình người đắm đuối, xưa các vị tri phủ trị nhậm cái vùng đất an lành này về sau thường được thăng chức. Bây giờ, không kể cái hồi "tách-nhập" lỉnh kỉnh, mất đoàn kết do bè phái, do địa phương chủ nghĩa, kể từ ngày tái lập huyện Hải Tần tức huyện Tân Hải bây giờ hai vị chủ tịch đã phải ra đi, chẳng có ai tồn tại được hai nhiệm kì thậm chí có vị chưa hết nhiệm kì bị tăng- xông phải đi điều trị rồi chống gậy về hưu!

Cấp trên vừa cử Vũ Công Minh, tỉnh ủy viên, nguyên chánh văn phòng tỉnh ủy về làm chủ tịch Tân Hải. Minh tốt nghiệp trung cấp ngoại ngữ, vào quân đội đi làm phiên dịch cho chuyên gia ở một đơn vị bộ đội tên lửa, hết chiến tranh, chuyển ngành về làm công tác đoàn. Anh là người năng nổ, xông xáo, sống rất chân thành. Từ bí thư đoàn huyện, huyện ủy viên rồi làm trưởng ban tuyên huấn, vào thường vụ, nhiệm kì tiếp theo làm phó chủ tịch huyện, được điều lên tỉnh rồi được bổ nhiệm chánh văn phòng, trúng tỉnh ủy viên. Theo cách xem xét của tổ chức, anh là một cán bộ đã được rèn luyện thử thách trong chiến đấu, trưởng thành từ thực tế cơ sở lên, cấp trên có đủ lòng tin để giao phó cho anh trọng trách vực dậy cái huyện Tân Hải này. Toàn bộ bộ máy của Tân Hải được hình thành từ ngày tái lập huyện vẫn còn nguyên chỉ trừ mấy vị chủ tịch là phải ra đi. Những người trong bộ máy ấy đều do Đỗ Trọng lựa chọn và sắp xếp từ ngày tái lập huyện. Khi còn là huyện ghép (gồm ba huyện sáp nhập lại) Đỗ Trọng là thường vụ huyện ủy, trưởng ban tổ chức, khi tách huyện anh được cử giữ chức phó chủ tịch thường trực huyện Tân Hải và tồn tại vững bền qua hai nhiệm kì chủ tịch khác nhau. Anh có mối quan hệ đặc biệt thân tín với đồng chí trưởng ban tổ chức tỉnh ủy.

Minh về nhận công tác Trọng hớn hở chào mừng, nhất cử nhất động đều báo cáo thỉnh thị xin ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch. Xuất thân từ một cán bộ làm công tác quần chúng lại thật dạ tin người, mọi việc anh đều muốn dựa vào Trọng nhưng Trọng lại vẫn giữ một khoảng cách, vẫn chỉ làm đúng chức năng của mình "Nhớn ra phận nhớn, tôi đành phận tôi" không vượt quá giới hạn của phận sự, vẫn mực thước, nhã nhặn, lễ độ (Dù anh lớn tuổi hơn Minh). Năm đầu tiên về nhận công tác cũng như kế sách của mọi người làm quan theo nhiệm kì, anh đi thăm hỏi, chúc tụng, dự các hội nghị thanh niên, phụ nữ, công đoàn, cựu chiến binh... rồi đi về các xã phường, các cơ sở, thăm hỏi tâm tư nguyện vọng của quần chúng... Ở đâu cũng cổ vũ, cũng biểu dương những truyền thống anh hùng, những hy sinh vô bờ bến, cũng tri ân người có công. Một năm không ngớt tiếng cười, tiếng vỗ tay, một năm người dân hy vọng vì những lời phát biểu của mình đã được cấp trên nghe, những đề xuất tâm huyết của mình đã được lãnh đạo ghi nhận

Năm thứ hai là xây dựng kế hoạch hành động, là tăng cường mặt này đẩy mạnh mặt kia, là thúc đẩy toàn diện, rồi các cuộc họp hành, học tập, quán triệt, là kế hoạch hành động của từng tổ chức từng cá nhân. Một năm hừng hực quyết tâm.

Năm thứ ba là "năm bản lề", mặt mạnh mặt yếu lộ dần, những nơi tổ chức mạnh thì cùng nhau hợp lực tìm biện pháp khắc phục đưa công việc đi lên, những nơi có "truyền thống" mất đoàn kết, nội bộ đấu đá thì ngồi nhìn đường gươm, miếng võ của nhau, đã tích lũy đủ những hiểu biết về tung tích của nhau, biết rõ nó là con ai, cháu ai, ô dù còn hay rách... chỉ chờ vào những kết quả thực tế của công việc nữa là có ngay "sách lược".

Năm thứ tư tổng kết rút kinh nghiệm, chuẩn bị cho sự mất còn.

Cái vòng xoáy ấy ở Tân Hải đang lặp lại như mọi nhiệm kì trước đây.

Trên bàn làm việc của Minh, một tập tài liệu dày cộp do chánh văn phòng Trần Thắng đưa lên trình chủ tịch phê duyệt. Minh lật từng trang, dừng lại chỗ này, ngó sang chỗ kia, cây bút trên tay, dừng lại hỏi Thắng:

- Cái này là thế nào đây cậu?

- Thưa anh, đây là bản quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống giao thông của Huyện. Bản này đã được chuẩn bị kĩ càng, có tham khảo ý kiến của các cơ quan chức năng cấp trên và đã được Huyện ủy, ủy ban khóa trước thông qua. Theo thông lệ trước đây trước khi triển khai kế hoạch xây dựng của năm, trình chủ tịch rà soát lại và phê duyệt từng công trình thi công cụ thể cho từng thời kì. Minh vừa nghe vừa lật lật mấy trang tiếp rồi hỏi:

- Thế còn đây? Dày cộp thế này thì tôi có thì giờ đâu mà xem chi tiết được! Ngày mai tôi lại đi Hà Nội họp hai tuần nữa rồi!

- Dạ không! Đây chỉ là bộ bản vẻ chi tiết thi công hạng mục 315- TH3 của bản quy hoạch đã được phê duyệt theo tờ trình số... ngày... tháng... năm...

- Cái này các cậu đã trao đổi kĩ với bên Quy hoạch - Xây dựng rồi chứ?

- Vâng ạ!

Thắng ôm bộ hồ sơ đã được Chủ tịch kí duyệt hớn hở về phòng, giờ làm việc đã hết từ lâu. Trọng và Quân phó phòng tổ chức đang ngồi đợi. Thấy Thắng, Trọng hất hàm:

- Xong chứ?

- Xong! Thắng chìa cho Trọng xem chữ kí của Minh.

- Tốt lắm, sáng mai anh cho triệu tập gấp các phòng ban liên quan triển khai ngay việc xây dựng con đường TH3 nối từ đường huyện vào trường trung học phổ thông. Tôi nhắc lại là phải tập trung mọi nhân tài vật lực làm xong càng sớm càng tốt. Đây là công trình đầu tiên do đồng chí chủ tịch mới phê duyệt, phải làm nhanh nhưng phải thật tốt, thật chất lượng đấy. Tôi sẽ nói kĩ trong cuộc họp ngày mai nhưng anh phải truyền đạt đầy đủ, phải làm chuyển biến ngay từ cơ sở đấy!

- Vâng ạ! Thắng nhìn Trọng cười.

Quân bảo:

- Trong mười ngày có xong được không?

Thắng lưỡng lự:

- Con đường chỉ dài hơn hai cây số, rộng sáu mét thì cũng không có gì khó khăn lắm, trong phạm vi hai tuần có thể cơ bản hoàn thành, chỉ ngại các xe cơ giới đang tập trung cho công trình thủy lợi X để hoàn thành trước mùa mưa!

- Ngừng tất, tôi đã bảo là tất cả tập trung cho công trình này cơ mà! Giáo dục là quốc sách hàng đầu, Trọng gắt.

- Vâng, vâng, với tinh thần ấy thì được, chắc chắn được.



Minh đi họp về, ngơ ngác tưởng vào đi nhầm nhà, một con đường rải nhựa rộng thênh thang chạy sát sân nhà mình, nhà anh ra mặt đường lớn! Ngộ quá! Trời tối, anh vội đưa cặp cho vợ xách vào rồi cuốc bộ theo con đường mới làm đến tận trường học. Lại càng lạ lùng, con đường, theo quy hoạch là làm cho trường học lại không đi qua trước cửa trường mà lại chạy phía sau, đi qua hai dãy nhà xí công cộng của trường!

Trọng hỏi Thắng:

- Cậu đoán xem "Sếp" phản ứng thế nào?

- Về lí thì ông ta chẳng làm gì được vì mọi việc là làm theo sự phê duyệt của Chủ tịch, việc chuyển vị trí con đường lùi lên hướng bắc 900 mét cũng đã có nêu trong tờ trình với lí do kết hợp đường đi của trường với đường đi của khu dân cư, nâng cao hiệu quả sử dụng đường, cải thiện đời sống của nhân dân. Khi nhìn trên thực địa mới nhận ra lùi lên 900 mét tức là đã chuyển con đường từ phía trước ra phía sau trường, con đường ấy lại chạy sát mặt nhà mình, chắc chắn ông ta biết mình bị "cài bẫy", nhìn con đường ai cũng biết đó là con đường của nhà chủ tịch huyện, nhân dân chỉ được thơm lây thôi, còn trường học thì không được gì, mặc dù đấy là ngân sách cấp cho trường học, cho sự "phát triển giáo dục"!

- Anh đoán ông ta sẽ xử lí vấn đề này thế nào? Thắng hỏi Trọng.

Quân bảo:

- Đòn "Ban mê thuột" này của "Tư lệnh" Trọng hiểm lắm, khó mà đỡ nổi.

Trọng bảo:

- Muốn biết ông ta xử lí vụ này thế nào các cậu phải hiểu đặc điểm tâm lí của "Sếp", ngừng một lát Trọng nói tiếp;

- Các cậu đã nhìn thấy vợ sếp chưa? Tớ kể về vụ xử lí chuyện lấy vợ của sếp để các cậu hiểu nét tâm lí đặc trưng của Chủ tịch.

- Kể đi, kể đi! sếp Trọng là từ điển sống về nhân sự của cả cái tỉnh này, "Thâm cung bí sử chuyện gì mà chẳng biết".

- Không, chuyện vui thôi, Trọng nói - Hồi ấy, Minh vừa ở bộ đội về, làm công tác đoàn, chưa vợ. Nghe đồn đại con gái Huê Cầu đẹp hắn hay kiếm cớ sang đấy công tác. Một lần sang đò, hắn đi sau, trước hắn là một cô gái thân hình cân đối thon thả, khi lội xuống sông để lên bờ, nhìn thấy đôi chân trắng nuột nà, thon thon, hồn vía hắn bay mất. Hắn lẽo đẽo theo sau cô ta, nhìn cặp mông thum thum đi lên dốc đung đưa, cái lưng ong bó sát trong chiếc áo lụa hoa, "hai quả lê" nhô lên phía trước kéo làn áo lụa sát vào lưng... Hắn bị thôi miên, từ cái làn da trắng của đôi chân, hắn cho trí tưởng tượng của mình lan đi khắp nơi trên cơ thể cô gái. Hắn tiến đến gần, một nét cười e ấp nở trên đôi môi thanh tú. Hắn không còn đủ tỉnh táo để quan sát, không dám nhìn vào mặt cô gái sợ làm tan biến cái dây phút thần tiên này. Hắn lấy được cô ta, vợ của hắn bây giờ, tên là Hiên.
Cưới nhau xong, đi thăm hỏi bà con láng giềng, bọn thanh niên thì thào: "Con bé được cái dáng người, mặt thì chỉ được cái miệng còn thì "xí" quá, mũi tẹt, gò má cao... ". Những buổi tối về muộn, nhìn vợ ngủ, cái mũi tẹt, hai gò má cao dàn thành một hàng ngang bằng phẳng, khuôn mặt vợ bỗng hóa thành hình thoi!. Hắn tự bảo: Bọn thanh niên tinh thật, mình đúng là "yêu nhau quá đỗi nên mê... ". Các cậu biết hắn giải quyết thế nào không? Trọng hỏi rồi nói tiếp:

- Tất nhiên là giải quyết với dư luận, hắn sợ nhất là người ta bảo hắn vội vã, dại gái, một người đẹp trai như hắn thiếu gì cô sắc nước hương trời mê mà đi lấy một cô gái như vậy ở cái xứ này! Hắn muốn tỏ cho mọi người biết hắn là người cẩn trọng, chín chắn. (Được cái may là vợ hắn tốt nết, chịu thương, chịu khó). Hắn bỏ ngoài tai mọi dư luận, coi như vợ hắn là tuyệt thế giai nhân, hắn đã kì công tìm kiếm và chọn được một người vợ vừa có nét đẹp cổ điển, truyền thống, vừa hiện đại, những người chưa nhận ra được vẻ đẹp của vợ hắn là những người có trình độ "lùn", thiếu kiến thức về mỹ học. Hắn sáng tạo ra một định đề mới về tiêu chuẩn đánh giá một người con gái đẹp: "Nhất dáng, nhì da thứ ba khuôn mặt". Đi đâu, nói chuyện với thanh niên về tình yêu, về luyến ái bao giờ hắn cũng cài cái định đề này vào và tất nhiên phải mở đầu bằng câu: "Các cụ ta nói... ". Muốn tồn tại, phải tạo ra cái lí thuyết bảo vệ sự tồn tại của mình. Cái lí thuyết ấy dù ngụy tạo đến đâu nói mãi chắc cũng có người tin - Hắn nghĩ vậy. Đối chiếu với tiêu chuẩn ấy của "các cụ" vợ hắn có thừa hai tiêu chuẩn nhất nhì, còn tiêu chuẩn thứ ba - khuôn mặt trừ cái mũi và gò má còn đôi mắt và cái miệng thì Tây Thi, Lộng Ngọc... cũng đến vậy là cùng! Con người chín chắn như hắn làm sao có thể hành xử cẩu thả trong một chuyện hệ trọng như việc lấy vợ được!

Thắng và Quân ngồi nghe, cười hề hề khoái chí.

- Nhưng chúng em muốn biết nước cờ tiếp theo của "Tư lệnh" là thế nào?

- Thì cho thêm một cái sai nữa để sai cộng với sai thành đúng vậy chứ sao nữa! Trọng nghiêng đầu về phía Thắng bảo: Như thế... Như thế. Đôi mắt lươn ti hí nhấp nháy đầy ẩn ý, Trọng đứng dậy, cái đầu hói suýt chạm phải cái bóng đèn ba mươi watt sụt thế treo thấp.

Hôm sau, Minh đến cơ quan sớm, nét mặt không vui nhưng anh vẫn đi khắp các phòng bắt tay, nói chuyện với một vài người. Anh gọi Thắng lên gặp.

- Tại sao làm con đường cho trường học mà các cậu lại cho đường chạy ra phía sau, học sinh đi học, thầy giáo đi dạy thế nào?

- Dạ, thưa anh, điều này đã có thuyết trình đầy đủ trong tờ trình trình lên anh và đã được anh kí duyệt, Thắng thưa.

- Tờ trình các anh chỉ nói chuyển đường lên hướng bắc 900 mét, tôi có biết đâu chuyển như vậy đường chạy qua trước mặt nhà tôi và chạy ra sau lưng nhà trường! Như thế có thể gọi hạng mục 315- TH3 là con đường của trường học nữa không?

- Thưa anh, việc này hôm trước bên quy hoạch đã bàn, trước mắt có thể bất hợp lí nhưng với sự phát triển sắp tới, trường học phải có một sân vận động đi kèm, trường học bây giờ là trường dạy các ông nhà nho ngày xưa, chẳng có chỗ vui chơi giải trí, rèn luyện thân thể, làm sao bảo đảm phát triển toàn diện Đức-Trí-Thể-Mỹ cho thế hệ trẻ được! Bên quy hoach dự kiến sẽ làm báo cáo trình anh cho di dời khu nghĩa trang phía sau trường hiện nay, cho đền bù di dời thêm một số hộ dân nữa để giải phóng mặt bằng làm sân vận động. Khi hoàn tất, con đường sẽ nằm giữa, bên phải là trường, bên trái là khu vui chơi giải trí, một không gian khép kín phục vụ cho công tác giáo dục, không chỉ là dạy và học trong nhà trường mà còn chỗ sinh hoạt vui chơi cho thanh thiếu niên nhi đồng của cả xã, tùy theo mức kinh phí rót hàng năm ta sẽ hiện đại hóa dần, sẽ làm bể bơi, đu quay, tàu điện, ôtô cho trẻ con tập lái... Tương lai của huyện ta nay mai phải đổi thay nhiều chứ đâu cư úi xùi mãi thế này, việc đầu tư phải nhìn xa mới khắc phục được tình trạng chắp vá, đào lên bới xuống anh ạ!

Minh đầy ngờ vực nhưng dù sao sự đã rồi, họ đã làm theo sự phê duyệt của mình, ý kiến của Thắng còn nhiều chỗ ngụy biện nhưng cũng gợi được cho anh một số hướng để chống đỡ với tình hình, với dư luận. Con đường được trồng cây, rải nhựa rất đẹp, đi đâu cũng nghe người ta bàn tán về con đường của nhà Chủ tịch.

Thắng thấy mệt mỏi, cơ quan tụm năm, tụm ba bàn tán xôn xao. Chủ tịch công đoàn Lê Hoan gặp Minh đề nghị:

- Cán bộ công nhân viên cơ quan lâu lắm không được nghỉ ngơi gì, nước nhà đã thống nhất nhưng hầu hết cán bộ nhân viên cơ quan chưa biết Sài Gòn, chưa biết Côn Đảo ở đâu cả, xin anh cho phép tổ chức cho anh em đi tham quan. Minh hỏi:

- Thành phần đi gồm những ai?

- Kể ra có điều kiện tổ chức cho anh em đi cả thì tốt nhưng do kinh phí có hạn, trước mắt, Ban chấp hành Công đoàn đề nghị anh giải quyết cho các cán bộ chủ chốt, các ban ngành của Huyện. Hoan đưa ra một danh sách dự kiến, đợt một do Chủ tịch Huyện Vũ Công Minh dẫn đầu, chủ tịch công đoàn cũng đi kì này, một số trưởng phó phòng ban, huyện ủy viên; Đợt hai do phó chủ tịch Đỗ Trọng dẫn đầu và một số người còn lại. Các phu nhân của lãnh đạo huyện, được mời, những người khác có thể cho vợ con đi cùng theo chế độ tự túc (chỉ được kèm một suất).

- Tôi hoan nghênh sáng kiến của Công đoàn và thống nhất danh sách các đợt đi, riêng tôi xin cho sang đợt sau, để anh Trọng hoặc các anh khác đi trước.

- Báo cáo anh, anh Trọng đợt này chưa đi được, tuần sau là ngày giỗ đầu bà cụ thân sinh anh ấy. Anh cố thu xếp đi cho, nếu anh không đi e đợt đi nghỉ không thành. Nói là đi nghỉ nhưng thực ra cũng là một dịp để trên dưới anh em hiểu nhau chứ ở cơ quan xong việc ai về nhà nấy, ai biết ai đâu. Anh về Huyện nhận nhiệm vụ đã hơn ba năm, công việc bề bộn mấy khi cấp dưới được gặp mặt trò chuyện để tạo sự thông cảm lẫn nhau.

- Thôi được, anh về thu xếp tổ chức cho anh em đi, việc tôi đi hay không sẽ nói sau.

Hiên nghe chồng nói được đi Sài Gòn - Côn Đảo thì mừng rơn, chị bảo:

- Em lấy anh mấy chục năm nay, chẳng biết anh làm ông nọ bà kia gì, em chỉ du dú xó nhà lắm lúc buồn chết đi được. Hay là anh chê em xấu không muốn cho em xuất hiện ở chỗ đông người? Em nuôi được mấy lứa lợn cũng đủ sức để mua vé tự túc đi, chẳng lấy tiền cơ quan làm gì cho mang tiếng!

Minh ngậm ngùi thương vợ, nghĩ vu vơ chuyện đời... "Cái thằng cha bán sắt vụn đầu phố mà nhà cửa đề huề, vợ chồng nay Đà Lạt mai Vũng Tàu thong dong, mình là cái gì? Sao mà mệt thế!"

Văn phòng đưa đến một cặp vé khứ hồi Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh cho vợ chồng chủ tịch. Theo kế hoạch, hai ông bà sẽ bay vào trước, cơ quan sẽ đi ô tô vào sau rồi lên máy bay trực thăng đi Côn Đảo. Mọi việc đã sắp xếp đâu vào đấy. Vợ chồng Minh bay đi Sài Gòn. Ô tô của cơ quan huyện Tân Hải vào đến Sài Gòn, Minh ngạc nhiên chỉ nhìn thấy tay phó văn phòng và mấy cán bộ nhân viên phần lớn là nữ. Kiên, phó văn phòng gặp Minh báo cáo lại lí do thay đổi nhân sự chuyến đi. Anh bảo:

- Cơ bản là thủ trưởng thôi, anh em thì đi hay không không quan trọng Anh Trọng dặn em phải phục vụ thủ trưởng thật chu đáo.

Côn Đảo, một buổi chiều đầu Hạ, bãi tắm thưa người, nắng dát vàng trên sóng biển lăn tăn, những hàng dương vi vút tấu lên trời xanh khúc nhạc đa đoan của cuộc đời dâu bể. Minh lặng lẽ đi giữa những hàng bia mộ, anh cẩn thận ghi chép họ tên, quê quán, ngày sinh, ngày mất của những người yên nghỉ dưới mồ. Tựa lưng vào gốc cây hoàng lan đang rủ bóng xuống ngôi mộ vô danh, anh suy nghĩ mông lung: "Giá như mình bị bắt, bị nhốt vào cái địa ngục trần gian này, bị đòn roi tra tấn liệu mình chịu được bao nhiêu ngày...! - Chắc không quá một tuần, Anh tự trả lời. Mình tầm thường nhỏ bé biết bao so với những người đã từng chịu cực hình nơi này, càng đớn hèn, ti tiện hơn khi đấu đá, luồn lách, tranh giành địa vị, chức tước, khi đem xương máu của những người đã hy sinh làm lá chắn cho mình, nấp dưới ánh hào quang của những người tiền bối để ngang nhiên ngụp lặn trong tanh tưởi nhớp nhơ...!"

Trở về Tân Hải, cả cơ quan như lơ láo, như đợi chờ, lòng Minh nhẹ nhõm đi bắt tay từng người. Đỗ Trọng với thái độ nghiêm trang, cung kính giả vờ đưa giấy triệu tập anh về tỉnh họp gấp.

Đồng chí Bí thư tỉnh ủy tóm tắt những đơn thư tố cáo Minh về lợi dụng quyền hạn, lấy tiền trong ngân sách phát triển giáo dục để làm đường vào nhà mình lại che dấu khuyết điểm bằng cách làm quy hoạch bổ sung xây sân vận động, khu giải trí vui chơi; lấy tiền công quỹ đưa vợ đi du lịch Côn Đảo đem theo cả một đoàn phục vụ bảy người và nhiều đơn thư tố cáo khác về chính sách cán bộ, về tác phong thái độ... Ông nói:

- Đây mới chỉ là ý kiến của quần chúng hay nói chính xác hơn là của một số người, bên ủy ban cũng đã cho cán bộ xuống Tân Hải nắm tình hình, ý kiến đánh giá cũng còn nhiều khác nhau. Hôm nay thường vụ cho mời đồng chí lên để được trực tiếp nghe ý kiến đồng chí, sau đó Ủy ban kiểm tra của tỉnh ủy sẽ tiến hành công việc của mình và báo cáo Thường vụ xem xét, xử lí.

- Thưa đồng chí Bí thư, thưa các đồng chí, những sự việc trên, dù xét theo phương diện nào thì cũng thuộc trách nhiệm của cá nhân tôi, nhưng khuyết điểm của tôi không phải là lợi dụng chức quyền tham nhũng mà là sự quan liêu, thiếu thực tế, quá tin ở bộ máy của mình không kiểm tra cụ thể. Sai lầm lớn nhất của tôi là sau khi đã biết mình bị "mắc bẫy" về làm con đường lại muốn chống chế bằng cách kí phê duyệt dự án làm sân vận động và khu vui chơi giải trí. May sao nhờ sự phát hiện kịp thời của các cơ quan chức năng của tỉnh nên dự án này chưa triển khai. Tôi xin chịu kỉ luật trước Đảng, nhẹ nhất cũng là cách chức chủ tịch huyện vì cho dù không có các khuyết điểm trên đi nữa thì gần bốn năm của nhiệm kì qua tôi chưa làm được một việc gì lớn thay đổi được tình hình ở Tân Hải, trình độ khả năng của tôi không đủ để đảm đương chức vụ này. Tôi chỉ xin đề nghị tỉnh cần cử những cán bộ có tâm, có đức xuống huyện trực tiếp nắm và kiểm tra tình hình, làm rõ đúng sai vì đây là nhiệm kì thứ ba từ khi tái lập huyện đến nay thường xuyên xẩy ra hiện tượng mất đoàn kết, không ủng hộ nhau, thậm chí cài bẫy nhau, phải tìm cho ra ai là kẻ dấu mặt, gây rối... Nếu không khó lòng đưa Tân Hải đi lên được.

Đỗ Trọng được triệu tập về tỉnh, đồng chí Chủ tịch tỉnh nói ngắn gọn:
- Tỉnh ủy đã có nghị quyết tập trung kiện toàn bộ máy của huyện Tân Hải, theo chủ trương này anh sẽ được phép lựa chọn một trong hai con đường: Một là nghỉ hưu sớm, hai là về tỉnh làm chuyên viên ở Sở Kế hoạch và đầu tư.

Trọng đứng dậy:

- Thưa, thưa... a... hà... Anh đưa tay gãi đầu, cái đầu hói nổi lên những vệt đỏ như bị sói cào.

Đỗ Trọng nhận ra ngón võ của y không dùng được trên cái mảnh đất chan chứa tình người này.


Quảng bá 05-7-2007

V. X. T.


Chuyện phở anh Hoan






Chuyện phở anh Hoan


_ 屈老: Khuất Lão _



Anh Hoan quê ở Huê Cầu, Hưng Yên, ngồi ăn quà mấy xu ở Hàng Hài, mới gấp sách về nhà tìm tòi cái nghề làm phở.

Hình như ở cái quê anh ấy, người ta cho thịt chuột vào nước dùng, để cho ra cái thức nước trong, ngọt sâu vào tận tủy. Có người ở Hà Nội về chơi, bảo, nước dùng của phở truyền thống là phải được ninh từ xương ống của bò cùng hành, gừng nướng, thảo quả, quế chi. Có ông khách ở Nam Định thì bảo phải cần gừng tươi, nước mắm, rồi tỏi nguyên tép bóc vỏ bỏ vào túi treo trong nồi nước dùng. Có kẻ buôn chuyến miền Nam thì lại bảo phải cho thêm mấy đẵn mía đường. Người thì cho mực khô, tôm khô, người thêm sá sùng, củ cải, người lại cho cả con cá quả luộc gói trong vuông vải sạch. Mấy ông trên mạn ngược ăn thắng cố, bảo phải cho cả xương ngựa, xương trâu, mấy bà ngoài chợ thì dùng gà già nấu lẫn su hào nguyên củ, lão Hoa Kiều thì bảo nhất quyết phải có ớt nướng và lát cao khỉ trên rừng.

Bấy giờ trên phố người ta đồn nhau về chuyện phở rong, bảo có ông một sáng gánh phở đi bán, lúc đi qua sào phơi, cái quần lót của rơi vào nồi nước phở. Rồi một ông chủ gánh phở nào đó ở tận Bắc Ninh có người vợ trẻ đẹp tuổi mới hai mươi, lại làm nước dùng rất khéo.








Một lần, bán hết phở, ông vớt ra từ trong thùng nước phở đã cạn một tấm vải trăng trắng, nhìn kỹ thì là cái yếm của bà nhà rơi vào đó tự lúc nào. Cố nhiên là hai cái nồi nước dùng hôm ấy khách ăn kháo nhau ngọt là ngọt và ngon lắm, cứ gọi là ô mê ly, thế mới kỳ lạ.

Anh Hoan xếp bút nghiên, theo cái nghề bán phở, gánh cái kế sinh nhai khắp ba sáu phố phường, mỗi năm mất bảy mươi ba đồng, vị chi mỗi ngày hai hào tem thuế. Bán được chừng năm thì phở người ta cho cả trứng lộn nhau thai, thịt bò từ Nga La Tư, Pháp, Tàu, Cao Ly, Nhật Bản.

Phở anh Hoan thì vẫn vậy, vẫn là cái gánh lo toan lương thiện. Có người bảo phở anh Hoan là đứa trẻ ngoan, không có cái phong khí của thời văn minh, thiếu hẳn đi cái kiểu cách của cao lầu phố nhớn, lại càng kém vẻ tiện nghi của bít tết sữa bò.

Một sáng, người ta vớt được trong thùng phở anh Hoan tập báo đã nát nhừ, hôm ấy tự nhiên nồi nước dùng có vị rất lạ lùng, vừa cổ kính, vừa thời sự, lại đầy đủ cay, đắng, ngọt, bùi, khiến khách hàng như kiến cỏ.


Khuất Lão Động Chủ Nguyễn Hạnh.









Tái Ngộ Cố Nhân (trích "Thượng Kinh Ký Sự")

_ Hải Thượng Lãn Ông _


Một ngày kia, hai lão ni[185]Lão ni: người đàn bà đi tu đạo Phật, tuổi đã già. đến chỗ tôi ngụ nói rằng: “Chùa Huê Cầu[186]Huê Cầu: tên làng thuộc huyện Văn Giang, Bắc Ninh. đúc chuông lớn, công quả[187]Công quả: hiệu quả của một việc đã thành. chưa thành, chúng tôi đến đây khuyến hóa[188]Khuyến hóa: quyên tiền.. Một ni nói: “Tôi trú trì ở chùa núi An Tử[189]An Tử Sơn: tên quả núi ở huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Tục truyền rằng An Kỳ Sơn xưa tu ở đấy, nên gọi là An Tử. An Kỳ Sinh là một vị tiên, người đời Chiến Quốc bên Tàu.. Một ni kia nói: “Tôi là con gái của quan tả thừa ty tỉnh Sơn Nam[190]Sơn Nam: vùng tỉnh Nam Định. , quê ở Huê Cầu”. Tôi nghe nói giật mình như tỉnh giấc mơ, mời họ vào nhà ngoài, hỏi nhỏ một tiểu cô trong bọn tòng hành, mới biết đích đây là “tiểu nhân”[191]Tiểu nhân: tiếng dùng riêng để chỉ người đàn bà mà đối với mình đã có quan hệ về tình cảm. của tôi vậy. Tôi nghĩ thầm: “Người này mà không biết mình mà lại đây, thật là một việc lạ. Mình nên nói tính danh ra để xem để xem ý tứ nào khắc hiểu rõ”. Tôi nói: “Tôi là người xã Liêu Xá, lánh nạn di cư đến Hoan Châu, ở Hương Sơn là quê mẹ, chẳng dè phải triệu về kinh. Nhà trọ tiêu điều, tuy có hằng tâm nhưng biết làm sao được”. Khi ấy chỉ thấy ni cô chùa Huê Cầu, mặt đỏ bừng, vẻ thẹn thùng, bảo ni cô chùa An Tử rằng: “Chúng ta nên đi đi thôi!”. Tôi lưu họ lại không được, mới mang ra một số hương tiền để cúng nhà chùa. Tôi hỏi: “Hai lão ni trọ tại nơi nào?”. Họ đáp rằng: “Chưa có nơi nào”, rồi từ biệt đi khỏi.

Tôi vội gọi một tên người nhà linh lợi bảo đi sau họ, lại dặn không được để họ biết. Khi dến chỗ trú ngụ của họ thì hỏi dò xem họ đến đây từ bao lâu rồi, còn lưu trú bao nhiêu ngày nữa. Tên người nhà được lệnh ra đi, ước hơn hai giờ sau thì trở về. Y nói: “Hai ni cô trú tại chùa Liên Tông, mới đến đây được vài ba ngày, còn ở kinh nhiều ngày nữa để khuyến hóa”.
Ngày hôm sau, tôi gọi học trò tôi tên Tài đến mà bảo rằng: “Ta có một việc khá đặc biệt, nhờ anh vì ta hết lòng lo liệu”. Anh ta nói: “Nếu đệ tử phải khó nhọc thì cũng là phận sự của mình, đâu dám chối từ”. Tôi nói: “Thuở nhỏ ta cầu thân với con gái quan Tham Chính Thừa Ty Sơn Nam xưa ở xã Huê Cầu, đã nạp đủ lễ vấn danh[192]Vấn danh: một lễ trong việc hôn nhân, hai bên trao đổi cho nhau tờ biên tên trai gái. và lễ nạp thái[193]Nạp thái: lễ đưa đồ dẫn cưới. . Vì việc bị cản trở, ta mới phải từ hôn, hồi cư Hương Sơn. Mãi sáu bảy năm sau ta về kinh, nghe nói vị quan ấy đã từ trần. Còn người đàn bà làm ta chú ý hôm nay, ta có dò hỏi, người ta nói rằng người đó rất kỳ quái. Nghe nói năm xưa có một công tử đến cầu thân và đã nạp trọn sáu hôn lễ mà việc cũng không xong. Người con gái nói rằng:- Đã có người hỏi mình làm vợ thì mình đã có chồng rồi, chẳng qua vô phận mà chồng bỏ, nay còn mặt mũi nào mà lấy chồng khác -. Cô ta thề chung thân ở vậy thôi. Tôi nghe vậy thì tâm thần kinh loạn, than rằng: - Vì ta đã bất cẩn trong vụ này, có thủy mà không có chung, khiến cho người mang hận mà ta có tội là người bạc bẽo -. Ta bối rối không biết làm cách nào để gỡ cái mối ấy ra, mới vội vã đến xã Huê Cầu dể tìm hiểu sự việc. Người làng, như trên đã nói, trong số mười người thì bảy, tám người nói là ngày phụ thân cô ta tạ thế, người anh ép gả bà cho một sinh đồ[194]Sinh đồ: người thi đỗ khoa thi hương xưa, nhưng vào bậc dưới. trong làng để lấy tiền lo việc tang. Bà ta không thuận. Có kẻ nói rằng nhà quan khi đã sa sút, kẻ cao sang không tìm đến, kẻ thấp hèn không dám cầu xin, vì thế ở góa cho đến giờ. Ta nghe nói lòng cũng tạm yên, rồi trở về Hoan Châu. Đến nay ta gặp lại người ấy, thấy cảnh cô khổ[195]Cô khổ: cô đơn và khổ hạnh. như vậy, chẳng kể hữu tình hay vô tình, việc há chẳng có mầm mối ở ta sao? Cái kế sách ngày nay là bảo dưỡng[196]Bảo dưỡng: giữ gìn và nuôi nấng. người ấy đến hết đời mới có thể chuộc cái lỗi trước. Ta còn ở kinh đợi lệnh sai bảo thì việc chu cấp không khó gì, thảng hoặc trở về núi thì giúp đỡ sao được, vì đường xá cách trở. Nếu bà ta thuận về nơi vắng vẻ; ở đó anh ta đã sáng tạo một cái chùa nhỏ, có thể cung cấp đèn nhang, mùa đông cũng như mùa hè, lạnh ấm đều sẽ do ta lo liệu, một là để báo đáp cái cao tiết[197]Cao tiết: cái khí tiết cao quý. của bà ta, một nữa là để chuộc cái lỗi của ta. Cần hỏi kỹ để biết cái tình tiết ngày trước, rồi trình bày dự định của mình một lượt để xem bà ấy có ưng thuận không, dể rồi ta trù liệu công việc”.

Tôi sai mua một ít thời vật[198]Thời vật: phẩm vật trong mùa. đem tặng làm tin. Người được giao phó công việc, y lời ra đi, đến chiều tối mới về. Y nói: “Tôi đến chùa Liên Tông, thừa lúc vắng vẻ mà nói chuyện. Bà ấy cố cầm giọt lệ, đáp rằng:- Quan nhân có hậu tình, còn tôi chẳng gặp chồng, cái thân cô khổ cũng là do số mệnh vậy, có dám oán trách ai, một đời sống tàn sao đáng tiếc. Có điều làm cho suy nghĩ là nhìn quanh không người thân thích, phần mộ tiên nhân không người cúng tế quét tước, há chỉ lo thân mình mà đến quê người độ sinh hay sao? Ông hãy trở về trả lời với quan nhân là tôi tuy chưa được nhờ ơn đức quan nhân, mà nay được biết tấm lòng tốt này cũng đủ an ủi cảnh linh lạc vậy”.

Tôi lấy làm thương tình, mới dãi lòng trong một bài thơ như sau:


Vô tâm sự xuất ngộ nhân đa
Kim nhật tương khan khổ tự ta
Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ
Song mầu xuân tận kiến hình hoa
Thử sinh nguyện tác can huynh muội
Tái thế ưng đồ tốn thất gia
Ngã bất phụ nhân nhân phụ ngã
Túng nhiên như thử nại chi hà?


Việc đã hại người chẳng tính ra
Nhìn nhau buổi ấy xót lòng ta
Một cười tình bạn mà rơi lệ
Hai mắt xuân tàn mới ngó hoa
Cuộc sống anh em lo giữ nghĩa
Kiếp sau ao ước sống chung nhà
Ta không phụ bạc dù ai phụ
Nào biết làm sai nỗi ấy a?

Từ đó thói thường qua lại hỏi thăm nhau. Bà ấy nói là ở Nghệ An có nhiều gỗ đóng quan tài, bà xin mua cho bà một cỗ. Tôi sai người đi kiếm, nhưng chưa được. Ngày tôi được thả cho về, tôi trao cho người lo việc ấy năm quan tiền cổ để tìm mua bán mà tặng bà ta. Đó là thuộc về việc sau, không nói đến.

-------------------
[185] Lão ni: người đàn bà đi tu đạo Phật, tuổi đã già.
[186] Huê Cầu: tên làng thuộc huyện Văn Giang, Bắc Ninh.
[187] Công quả: hiệu quả của một việc đã thành.
[188] Khuyến hóa: quyên tiền.
[189] An Tử Sơn: tên quả núi ở huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Tục truyền rằng An Kỳ Sơn xưa tu ở đấy, nên gọi là An Tử. An Kỳ Sinh là một vị tiên, người đời Chiến Quốc bên Tàu.
[190] Sơn Nam: vùng tỉnh Nam Định.
[191] Tiểu nhân: tiếng dùng riêng để chỉ người đàn bà mà đối với mình đã có quan hệ về tình cảm.
[192] Vấn danh: một lễ trong việc hôn nhân, hai bên trao đổi cho nhau tờ biên tên trai gái.
[193] Nạp thái: lễ đưa đồ dẫn cưới.
[194] Sinh đồ: người thi đỗ khoa thi hương xưa, nhưng vào bậc dưới.
[195] Cô khổ: cô đơn và khổ hạnh.
[196] Bảo dưỡng: giữ gìn và nuôi nấng.
[197] Cao tiết: cái khí tiết cao quý.
[198] Thời vật: phẩm vật trong mùa.


Hải Thượng Lãn Ông


 ❧ ❀ ❧ 




Mối tình của ông già lười

Nghe đọc tại Sách nói Online http://sachnoionline.net
_ Truyện ngắn của Từ Khôi _


Đi trên những phố cổ Hà Nội, giữa không khí bán buôn, có ai đó chợt lắng lòng tự hỏi: danh nhân được dùng để đặt tên cho con phố này có lý lịch thế nào?

Tôi đang đi trên phố Lãn Ông. Bạn từng đi trên đường phố này bao nhiêu lần? Có thể bạn chưa để ý đến tên phố nhưng khứu giác thì à lên mách bảo: mùi thuốc bắc.

Lãn Ông, đây không phải là tên cúng cơm của danh nhân mà là tên hiệu tự đặt. Lãn Ông là tên chữ Nho, có nghĩa là Ông Già Lười. Còn tên thực của ông là Lê Hữu Trác.

Lãn Ông - Không biết ai đã có sáng kiến lấy tên của vị đại danh y này đặt cho đường phố chuyên bán thuốc bắc?

Đến đây, có thể có bạn sẽ căn vặn tôi: “Tôi đã biết Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là bậc đại danh y của dân tộc. Nhưng anh có biết gì về những câu chuyện đời tư của danh nhân. Nếu có thể anh kể được một câu chuyện mùi mẫn chăng?”

Câu hỏi khiến tôi bối rối. Một câu chuyện mùi mẫn. Mùi mẫn. Bỗng dưng một ý nghĩ lóe lên như có ai gợi ý: anh đã đọc một cuốn tiểu thuyết viết về Lãn Ông do người nước ngoài viết chưa?Tiểu thuyết Lãn Ông của nữ văn nghị sĩ Pháp Yveline Féray, NXB Văn Nghệ TP HCM, 2005. Đấy người nước ngoài còn viết được tiểu thuyết về Lãn Ông trong khi anh đến một câu chuyện nhỏ về danh nhân còn lúng túng. Người đã xa. Đã thành thiên cổ. Đã hòa vào lịch sử 1000 năm Thăng Long – Hà Nội thì biết đâu mà lần...

Trong tiểu thuyết viết về Lãn Ông của nữ tác giả nước ngoài nọ hẳn có những câu chuyện riêng tư? Có lẽ tất cả những câu chuyện riêng tư ấy sẽ chẳng khiến ai quan tâm nếu như không có một chi tiết khiến bạn “nhảy cỡn” lên: sao lại viết danh nhân của chúng tôi nửa đêm mò đi chơi gái?

Trước chi tiết này, cũng có người nói:

- Thì đã sao. Như thế mới là con người chứ.

Tôi lại lâm vào tình thế lúng túng.

  

Dừng chân vào một quán cà phê. Trong khi đang nhấm nháp tách cà phê nóng hổi, mải nghĩ xem mình có biết gì về thân thế sự nghiệp của Lãn Ông không thì bất chợt có tiếng hỏi làm tôi giật mình:

- Chú cũng làm thầy lang à?

Tôi ngơ ngác. Nhìn ra xung quanh không thấy ai. Chắc ông già khoảng tám mươi tuổi ngồi bàn bên cạnh hỏi tôi. Tôi khẽ lắc đầu. Ông già nói:

- Chẳng là tôi thấy chú cứ dán mắt vào xem thầy lang bên kia bốc thuốc.

- Ông là thầy lang sao? Tôi hỏi lại ông già. Ông già khẽ gật đầu.

- Ông có biết chuyện gì về đời tư của đại danh y Hải Thượng Lãn Ông không? Chẳng hiểu sao bỗng nhiên tôi lại buột miệng hỏi ông già câu hỏi ấy. Ông già gật đầu.

- Tôi chẳng kể cho anh nghe dài dòng văn tự về chuyện thù tạc văn chương thơ phú của Lãn Ông nữa. Thi phú đối với bậc đại Nho, danh y Lãn Ông chẳng cần ngợi ca. Tôi cũng không kể cho anh nghe làm gì những cái chuyện thuốc thang vì anh cũng chẳng phải thầy lang như tôi. Có cái chuyện này, anh chịu khó nghe vậy.

  

Từ miền sơn cước Hương Sơn châu Hoan (Hà Tĩnh), gần trưa một ngày không rõ ngày nào. À tôi nhớ ra rồi. Ngày 12 tháng giêng năm Nhâm Dần (1782), Lãn Ông đang ngắm cảnh ở vườn thì có sai dịch của quan trấn bản hạt tới đưa thư. Đó là chỉ truyền về kinh chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Người sai dịch tiết lộ riêng với Lãn Ông rằng: “Quan Chánh Đường Hoàng Đình Bảo nghe danh cụ nên tiến cử cụ với chúa Trịnh về kinh chữa bệnh cho Đông cung vương Thế tử”.

Sau vài ngày chuẩn bị, Lãn Ông về kinh.

Về tới kinh thành, nhưng chưa được triệu vào phủ bắt mạch cho Chúa và Thế tử nên Lãn Ông xin phép ghé về Liêu Xá, huyện Đường Hào, Hải Dương thăm bản quán sau ngót ba chục năm xa cách. Khi trở lại kinh đô, anh người nhà tên là Tài lấy làm ngạc nhiên và băn khoăn mãi về sự trầm tư của Lãn Ông, nhưng không dám hỏi...

Đang ở nhà trọ thì một hôm Lãn Ông thấy hai bà sư và một ni cô trẻ đến. Họ nói từ chùa Huê Cầu ở phủ Thượng Hồng, Hải Dương lên kinh thành quyên tiền để góp thêm kinh phí tu bổ chùa và đúc một quả chuông lớn. Lãn Ông mời họ vào nhà. Trong khi nói chuyện mới để ý tới một bà vóc dáng nhỏ nhắn, nhanh nhẹn. “Không biết mình đã gặp bà ta ở đâu”, Lãn Ông nghĩ mãi vẫn chưa ra. Về phần bà sư này cũng nhìn Lãn Ông có phần phân vân. Nhân thể, Lãn Ông bèn gặng hỏi về quê quán, người thân của bà. Bà sư đáp:

- Thưa ông. Tôi là Liên. Người gốc Huê Cầu. Nguyên con gái quan Tả thừa tư Sơn Nam...

Mới nghe đến đây, trong lòng Lãn Ông đã xáo trộn. Có thật chăng bà sư này là Liên? Là con gái quan Tả thừa tư Sơn Nam?

Thấy Lãn Ông ngập ngừng, nên bà sư Liên cũng không tiện hỏi về quê hương bản quán của Lãn Ông.

Nhân khi bà sư Liên ra hiên lấy ông bình vôi để ăn miếng trầu, Lãn Ông mới hỏi nhỏ ni cô đi theo:

- Sư Đàm Liên đích thị người vùng nhuộm thâm Huê Cầu, con quan Tả thừa tư Sơn Nam nổi tiếng ở phủ Thượng Hồng, trấn Sơn Nam?

Ni sư khẽ gật đầu đáp:

- Thưa vâng.

Lãn Ông lại thần người ra mất một lúc. Khi ấy, sư Đàm Liên cũng vừa đi vào. Lãn Ông ngập ngừng:

- Tôi là người thôn Văn Xá xã Liêu Xá, phủ Thượng Hồng, Hải Dương. Vì loạn phải phiêu dạt về quê mẹ xứ Hương Sơn châu Hoan...

Mới nghe Lãn Ông nói đến đây, sư Đàm Liên thảng thốt, không giấu nổi qua hành động và ánh mắt cúi gằm. Sư Đàm Liên ấp úng nói với sư bà và ni cô đi cùng:

- Chúng ta đi thôi!

Lãn Ông không ngăn được bèn ấn vội vào tay sư bà cùng đi với sư Đàm Liên ít tiền cung tiến. Lãn Ông hỏi:

- Các sư trọ ở đâu?

Sư bà và ni cô chưa kịp trả lời thì sư Đàm Liên vội nói:

- Chúng tôi đi khuyến hóa, tiện sẽ có chỗ nghỉ thích hợp.

Nói xong, liền thúc sư bà và ni cô từ biệt Lãn Ông.

Đợi họ ra tới cổng, Lãn Ông khẽ vẫy tay ra hiệu cho anh người nhà tên là Tài lại gần, căn dặn:

- Anh hãy lén theo các bà sư xem họ ở đâu. Nhớ đừng để họ biết.

Tài đi khá lâu mới trở về, thưa:

- Trình thầy, hai bà sư trọ ở chùa Liên Tôn. Họ mới đến và dự tính sẽ ở lại kinh đô khá lâu.

Đêm ấy. Trăng trong, gió hây hây thổi. Lãn Ông ngồi độc ẩm, tư lự. Đêm về khuya, tiết Nguyên tiêu lành lạnh. Anh Tài đem thêm chiếc áo cho Lãn Ông và khuyên thầy nên đi nghỉ. Lãn Ông khoát tay ra hiệu cho anh ngồi xuống bên cạnh. Đợi Tài uống xong chén trà, Lãn Ông chậm rãi:

- Có chuyện này ta muốn nhờ anh giúp.

- Dạ thưa, có gì thầy cứ dạy bảo.

Lãn Ông buồn rầu:

- Khi còn ít tuổi, nhà có dạm hỏi cho ta con gái quan Tả thừa tư Sơn Nam ở Huê Cầu. Thời bấy giờ “nam nữ thụ thụ bất thân” nên ta và nàng chỉ có thể nhìn trộm nhau mỗi dịp ngang qua đầu làng, nơi có một cái đầm nước hình cái bầu lượn sát bên hàng tre ngả bóng và ngăn làng thành hai xóm. Do cha mẹ đôi bên hứa gả nhưng quả thực ta và nàng lại có vẻ rất ưng nhau dù chẳng ai dám ngỏ lời. Mà ngỏ lời làm chi khi bốn con mắt đã nói hết mọi lời. Tưởng các việc đã đâu vào đấy rồi thì... cha ta đột tử. Ấy là năm Kỷ Mùi (1739), khi ấy ta mười chín tuổi tròn. Giữa khi ta đang chịu tang thì lại xảy ra loạn lạc. Hết loạn Nguyễn Tuyển, loạn Nguyễn Cừ, đến loạn Vũ Trác Oánh, Nguyễn Hữu Cầu khởi binh ngay đất bản quán. Lại thêm quân của Hoàng Công Chất vây hãm ở ven sông Nhị Hà (sông Hồng), có bận còn chiếm giữ cả vùng Khoái Châu, Hưng Yên. Ta bị gọi đi lính như nhiều trai đinh. Sợ Liên lỡ thì, nên ta đành phải từ hôn. Ta cứ nghĩ rằng con gái quan Tả thừa tư Sơn Nam sẽ mau chóng có người môn đăng hộ đối. Vài năm, rồi ta cũng chán cảnh võ nghiệp. Giữa khi ấy anh trai thứ năm của ta ở Hương Sơn lâm trọng bệnh qua đời. Ta trở về xứ Bầu Thượng, bên con sông Ngàn Phố ở Hương Sơn châu Hoan chăm sóc mẹ già...

____________

Tiểu thuyết Lãn Ông của nữ văn nghị sĩ Pháp Yveline Féray, NXB Văn Nghệ TP HCM, 2005.
Thấm thoắt thoi đưa, ta lập gia đình ở Hương Sơn. Chừng dăm sáu năm, ta có việc về kinh tìm thầy học nghề thuốc nhưng không được đành mua tạm mấy cuốn sách đem về. Khi hỏi thăm ông hàng sách về quan Tả thừa tư Sơn Nam thì được tin ông đã mất. Hỏi về người con gái, ông hàng sách cho hay: đã có công tử đến hỏi, việc chuẩn bị đã xong nhưng không hiểu sao lại tan vỡ. Hơn năm sau lại có kẻ môn đăng hộ đối nhờ bà mối đánh tiếng cầu hôn nhưng cô chối từ, nói rằng: “Đã có người dạm hỏi, tức là mình là phận gái có chồng. Nay số phận chẳng ra gì mà bị chồng bỏ thì còn mặt mũi nào lấy ai nữa”. Cô thề nguyền suốt đời không lấy ai.
Lãn Ông ngừng lời. Rồi mắt ngấn lệ, ông kể tiếp:

- Nghe ông hàng sách kể, ta không khỏi buồn rầu. Một buổi ta về Huê Cầu thì được tin: người anh sắp gả cô cho một anh sinh đồ trong làng. Ta nghe nói có phần nguôi ngoai, yên lòng.

Thế nhưng ta đâu biết, dù bị ép nhưng trước sau cô Liên vẫn dứt khoát không chịu.

Mấy bữa trước, ta trở về Huê Cầu, người dân nói cô ở vậy đến già và đi tu ở tận bên Yên Tử, Đông Triều, Quảng Ninh. Ta không thể lên đó được vì còn phải về kinh thăm bệnh cho Chúa. Không ngờ giữa chốn kinh đô phồn hoa này lại có cơ duyên gặp gỡ.

Khẽ dụi mắt, Lãn Ông bùi ngùi:

- Ta muốn nhờ anh tới chùa Liên Tôn, thưa với sư Đàm Liên rằng ta rất ân hận về việc có trước mà không có sau với bà ấy. Nếu bà ấy không chê, ta muốn mời bà về Hương Sơn để phụng dưỡng. Trong khu vườn thâm u của ta vốn sẵn có ngôi miếu thờ Phật, bà có thể an hưởng tuổi già. Hỏi xem bà có bằng lòng hay không. Các việc về sau ta sẽ tính.

Sớm hôm sau, anh Tài đến chùa Liên Tôn. Nhưng các bà sư và ni cô đã đi khuyến hóa từ tinh mơ. Anh Tài kiên nhẫn đợi. Đến ngang chiều, các sư bà mới trở về. Anh Tài đem chuyện thưa riêng với sư Đàm Liên. Sư nghe xong, không nén nổi sụt sùi, đáp:

- Anh về thưa lại với cậu Chiêu Bảy, à quan nhân, vì từ trước tôi quen gọi cậu Chiêu Bảy con quan Thị lang Bộ Công. Quan nhân có lòng, nhưng kiếp này tôi không gặp được chồng phải long đong khổ não. âu cũng là số phận, đâu có dám oán thán gì ai. Tôi nay không còn thân thích, phải trông nom phần mộ tổ tiên, đâu dám rời bỏ mà cầu lấy miếng ăn, kiếm chút nhàn tuổi già. Anh về thưa lại với quan nhân: tôi dù chưa được đội ơn thừa của quan nhân nhưng vâng nhận tấm lòng của quan nhân cũng đủ để an ủi nỗi niềm linh lạc của tôi rồi.

Đêm ấy, trăng xuân có phần lạnh hơn. Lãn Ông ngồi đắng lặng một mình bên bầu rượu, tay khư khư chiếc chén hạt mít. Thỉnh thoảng ông lại đưa lên môi nhấm nháp. Ông nhấc bút, lăn mực và viết. Viết xong, ông cầm vuông giấy dó lên và nhìn chăm chú khá lâu rồi mới đặt xuống bàn. Anh Tài lại đến bên bàn nhắc ông đi nghỉ sớm để mai còn vào phủ hầu Chúa và Thế tử Trịnh Cán. Lãn Ông cầm lấy vuông giấy, đưa cho Tài đọc. Đó là một bài thơ.
Thơ rằng:

Vô tâm sự xuất ngộ nhân đa
Kim nhật tương khan khổ tự ta
Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ
Song mâu xuân tận hiện hình hoa
Thử sinh nguyện tác càn huynh đệ
Tái thế ưng đồ tốn thất gia
Ngã bất phụ nhân nhân phụ ngã
Túng thiên như thử nại chi ha!

Nghĩa là:
Vô tâm nên nỗi lỡ người ta
Hôm nay nhìn nhau luống ngậm ngùi
Tiếng cười mừng gặp mặt còn ngân nước mắt
Nơi góc sâu đôi mắt già (gần lòa) còn in bóng người con gái năm xưa.
Đời nay xin kết nghĩa làm anh em
Nguyện rằng kiếp sau sẽ kết làm gia thất
Ta không phụ người người nỡ phụ
Đành thôi như thế biết sao mà!

Lẩm nhẩm đọc đi đọc lại mấy lần, anh Tài trao lại bài thơ cho Lãn Ông không dám bình luận gì. Nhưng khi vào giường nằm, miệng anh lại lẩm nhẩm:

- Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ/ Song mâu xuân tận hiện hình hoa. Một câu thơ xuất thần. Thầy ta đa cảm thật. Mà sư Đàm Liên kể cũng nhất kiến chung tình.

Kể từ sau đêm làm xong bài thơ, Lãn Ông thường qua lại chùa Liên Tôn thăm sư Đàm Liên. Ban đầu sư Đàm Liên còn ngượng ngập nhưng sau cũng vui lòng đón tiếp và cũng thi thoảng tới nhà trọ thăm Lãn Ông. Họ coi nhau như anh em một nhà.

Hôm ấy, đương khi vui, Lãn Ông đọc cho sư Đàm Liên nghe bài thơ vừa viết than trách nỗi mình tệ bạc. Sư Đàm Liên lắng nghe, nước mắt lưng tròng. Sư không nói gì. Nhưng đến đêm, sư đã đọc đi đọc lại cả bài thơ không sai một từ. Trong đêm khuya, sư khẽ thốt lên rằng:

- Chiêu Bảy ơi, chàng còn nhớ chăng bài thơ chàng cảm thán cho số phận buổi loạn lạc năm xưa. Còn thiếp, thiếp nhớ như in bài thơ. Cảnh tang tóc trong bài thơ thì nhiều người biết. Nhưng cảnh tang tóc trong lòng thiếp thì ai tỏ tường. Sư khẽ ngâm:

Hồng – Châu trước nỗi binh đao
Kim đôi chiến đấu máu đào thành sông
Xương vùi mồ mả chập chồng
Lũy xưa cát trắng một vùng còn ghi


Một buổi khác, cũng lựa khi đương vui, sư Đàm Liên nói rằng:

- Chúng ta sắp phải chia tay. Tôi về Huê Cầu còn quan nhân về Hương Sơn. Tôi hỏi khí không phải mong quan nhân xá lỗi. Tôi nghe nói xứ Nghệ gỗ tốt, tôi muốn nhờ quan nhân tìm mua cho một cỗ áo quan có được chăng?

Lãn Ông nhận lời. Ông nhờ người tìm ngay nhưng chưa có. Đành hẹn dịp tốt sẽ cho người đem đến.

Lại một hôm khác, Lãn Ông tâm sự với sư Đàm Liên về việc muốn in bộ sách “Lãn Ông tâm lĩnh” tại Thăng Long vì ở đây mới có điều kiện khắc ván. Tiếc rằng công việc cứ nấn ná mãi. Sư Đàm Liên nói muốn được xem sách. Lãn Ông liền trao cho cho sư Đàm Liên mượn về chùa Liên Tôn. Trên đường về, sư Đàm Liên ghé qua chợ Mơ mua giấy, bút, mực. Những ngày, đêm sau đó, sư bà và ni cô thấy sư Đàm Liên luôn tay chép lại sách “Lãn Ông tâm lĩnh”. Họ hỏi, sư Đàm Liên cười nói vì muốn học chút nghề thuốc để phòng thân và may ra có thể cứu giúp được ai đó chăng. Sư Đàm Liên cũng căn dặn sư bà và ni cô đừng nói cho ai biết việc chép lại sách này.

Cái ngày sư Đàm Liên chép xong sách “Lãn Ông tâm lĩnh” thì cũng chính là ngày Lãn Ông báo rằng ngày mai, ông sẽ trở về Hương Sơn. Đây là cơ hội mà ông cần phải chớp lấy để giũ bỏ chốn đô hội mà ông không muốn những danh lợi nhuốm vào.

Hôm sau, sư Đàm Liên tới tiễn Lãn Ông. Hai con người tóc bạc da mồi nhìn nhau bịn rịn. Nhìn nhau không muốn chớp. Hình như ai cũng linh cảm rằng đây là lần gặp nhau cuối cùng trên dương thế.

Lãn Ông khẽ mở tay nải, lấy ra một bọc lụa gói ghém cẩn thận, hai tay trao cho sư Đàm Liên, bùi ngùi:

- Tôi đã nhận lời mà chưa làm được. Nay lại phải về Hương Sơn. Có một chút này biếu sư dùng để mua bộ áo quan như đã hứa.

Sư Đàm Liên giơ tay cản. Nhưng Lãn Ông cố đưa, nói rằng:

- Vì tôi sư đã lận đận nhiều. Một chút này mà sư cũng không nhận thì lòng tôi muôn phần đau đớn không yên. Mong sư hãy nhận cho.

Sư Đàm Liên miễn cưỡng nhận. Rồi họ chia tay.

Câu chuyện về việc Lãn Ông biếu sư bà Đàm Liên năm quan tiền cổ để mua áo quan có lẽ nhiều người biết. Lãn Ông cũng đã kể ngắn gọn tình tiết này trong “Thượng Kinh Ký Sự”. Thế nhưng, chính Lãn Ông không hề biết: ước nguyện của sư bà Đàm Liên khi đánh tiếng nhờ mua giúp bộ áo quan tốt chỉ là cái cớ. Sau này, khi sư bà Đàm Liên viên tịch, ni cô cùng đi tu theo sư có kể rằng: sư Đàm Liên có ước nguyện khi mất sẽ được nằm trong bộ áo quan mà Lãn Ông, tức cậu Chiêu Bảy lo cho, chứ sư Đàm Liên cần gì quan tài gỗ tốt hay không tốt đâu...

Ni cô cũng kể: dù ban đầu sư Đàm Liên tính toán là thế song sự thể lại chẳng được như ước nguyện. Khuyến hóa xong, sư Đàm Liên đã ở lại kinh thành. Hàng ngày, ngoài việc chăm nom cùng sư trụ trì chùa Liên Tôn, sư Đàm Liên còn đi giúp dân làm lễ và nhiều công việc khác. Sư Đàm Liên chăm chỉ tích cóp từng đồng xu nhỏ. Có người biết chuyện chê bai, dè bỉu sư tham lam. Sư nghe chỉ cười chứ không hề nói lại. Một ngày, người ta thấy sư thuê một tốp thợ khắc ván. Những người thợ của kinh thành này sau đó đã khắc trọn bộ “Lãn Ông tâm lĩnh” truyền lại cho đời sau.

Công việc xong xuôi, tốn kém rất nhiều. Sư Đàm Liên đã không giữ được một đồng xu nào từ năm quan tiền cổ mà Lãn Ông đưa tặng để mua bộ áo quan.

  

Câu chuyện của ông già trong quán cà phê khiến tôi bần thần cả người mà quên không hỏi địa chỉ của ông ở đâu. Ông có nói gia tộc ông đã gìn giữ bộ ván khắc “Lãn Ông tâm lĩnh” còn khá nguyên vẹn. Không biết gia tộc ông có liên quan gì tới sư bà Đàm Liên không. Nếu không phải trong gia tộc thì sao dòng họ ông lại có bộ ván khắc này...

Người đời sau được thừa hưởng rất nhiều từ vốn y thuật của “ông già lười” Lê Hữu Trác. Điều đó ai cũng biết rất rõ, nhất là các thầy lang. Nhưng kết cục, sư bà Đàm Liên, người đã thuê khắc “Lãn Ông tâm lĩnh” viên tịch ở đâu, được an táng chốn nào? Câu hỏi này cơ hồ không có lời đáp nếu không tìm được ông già trong quán cà phê hôm nào.




Mối Tình Chung Thuỷ, Nhân Hậu

_ Đỗ Hồng Ngọc _

Báo Sức khoẻ Đời sống, Bộ Y tế, số 59 có bài "Ông Làm Biếng" của nhà văn Hữu Ngọc, giới thiệu cuốn tiểu thuyết mới Monsieur le Paresseux của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời của Hải Thượng Lãn Ông, người tổ ngành Y Việt Nam chúng ta. Một người thầy thuốc tài ba đức độ như Lãn Ông Lê Hữu Trác, tác giả của bộ Y Tông Tâm Lĩnh gồm 66 cuốn, mặc dù suốt đời tận tuỵ chữa bệnh cho mọi người nhưng chỉ mong sao cho không còn ai mắc phải bệnh tật nữa để mình được làm một "Ông Làm Biếng", đó chẳng phải là một ước mơ ngàn đời của ngành Y sao? Tôi không có cuốn Monsieur le Paresseux trong tay nên không biết Yveline Féray "hư cấu" ra sao chuyện tình đầu của Lãn Ông, nhưng trong Thượng Kinh Ký Sự"Chú thích: Hải Thượng Lãn Ông - Thượng Kinh Ký Sự - NXB Văn học, 1993. Bản dịch của Ứng Nhạc Vũ Văn Đình , tập ký viết năm 1783 của ông đã kể một cách khá chi tiết về mối tình thuỷ chung và nhân hậu đó, nên muốn ghi lại đây cùng với những cảm nghĩ để bạn đọc cùng chia sẻ nhân dịp xuân về.

Chuyện như sau:

"Một ngày kia, có hai lão ni đến chỗ tôi cư ngụ, nói rằng: chùa Huê Cầu đúc chuông lớn, công quả chưa thành, chúng tôi đến đây khuyến hoá”. Thế rồi một ni sư tự giới thiệu mình là trụ trì chùa núi An Tử, còn lão ni kia thì giới thiệu mình là con gái quan tả thừa ty Sơn Nam, quê ở Huê Cầu. "Tôi nghe nói giật mình như tỉnh giấc mơ", Lãn Ông viết. Sau đó ông tìm cách "hỏi nhỏ một tiểu cô trong bọn tòng hành mới biết là người cũ của mình". Rõ ràng một tiểu ni tìm đến một quan nhân (lúc này Lãn Ông đang làm quan thầy thuốc ở trong triều) để khuyến hoá mà lại xưng cái "lý lịch cá nhân" của mình ra như thế, phải có lý do gì chứ. Và đúng vậy, chỉ mới nghe qua địa danh Sơn Nam, Huê Cầu thôi, đã đủ làm cho Lãn Ông choáng váng, "giật mình như tỉnh giấc mơ". Chuyện đúc chuông, khuyến hoá chẳng qua là cái cớ để cho bà có dịp gặp lại ông.

Tưởng tượng coi, lão ni – người tình cũ của Lãn Ông – đã phải trần mình năn nỉ, thuyết phục sư bà ra sao để sư bà động lòng chịu cùng xuống núi một phen. Tuy biết khá rõ rồi, nhưng vốn thận trọng, Lãn Ông mới "trắc nghiệm" lại lần nữa, vì biết đâu chỉ là một sự tình cờ, ông bèn kể rõ quê quán... "Lúc đó chỉ thấy ni cô chùa Huê Cầu mặt đỏ bừng, vẻ thẹn thùng, bảo sư bà trụ trì rằng: Thôi, chúng ta đi thôi”. Một lão ni nghiêm trang cẩn mật, tuổi tác già nua mà "mặt đỏ bừng, vẻ thẹn thùng" rồi phải hối thúc sư bà "đi đi thôi” trong một tâm trạng như là dỗi hờn thì thật là đáng kinh ngạc. Lãn Ông rất lúng túng, tìm cách "lưu họ lại không được, mới mang ra một ít hương tiền để cúng” rồi hỏi: “Hai lão ni trọ tại nơi nào?". Họ đáp: “Chưa có nơi nào", rồi vội vàng từ biệt ra đi. Lãn Ông đâu dễ chịu ngồi yên, ông "vội gọi một tên người nhà linh lợi bảo đi theo sau họ, mà không cho họ biết... ".

Thế rồi Lãn Ông nhớ lại mối tình xưa. Lỗi tại ông. Ông đã nộp đủ lễ vấn danh, lễ nạp thái, vậy mà rồi vì một lý do riêng, ông hồi cư về Hương Sơn quê mẹ và xa luôn người vợ sắp cưới của mình để bà phải mỏi mòn trông đợi đến hôm nay mới bất ngờ gặp lại.

Rồi người thiếu phụ đó ra sao? Lãn Ông có dọ hỏi thì biết bà "thề chung thân ở vậy". Nhiều người đi hỏi cưới, bà cương quyết từ chối. Sau cùng, bà vào chùa tu.


Lãn Ông viết tiếp "Tôi nghe biết vậy thì tâm thần kinh loạn, than rằng: Vì ta bất cẩn trong việc này. Có thuỷ mà không có chung, khiến cho người mang hận, mà ta mang tiếng là người bạc bẽo. Ta bối rối không biết cách nào để gỡ cái mối ra, mới vội vàng đến Huê Cầu mà tìm hiểu sự việc". Quả thật, bà đã từ hôn nhiều người chỉ vì lòng bà chỉ có Lãn Ông thôi. Bà thà đi tu chớ không lấy ai khác nữa!
Bà nói: "Đã có người hỏi lấy làm vợ thì mình (coi như) đã có chồng rồi, chẳng qua vô phận mà chồng bỏ... ". Trách chi Lãn Ông không tan nát cõi lòng, "tâm thần kinh loạn". Để chuộc lỗi mình, ông xin bà cho ông được coi bà như "cô em gái nhỏ", bảo dưỡng bà suốt đời từ đây. Vì bà đã đi tu nên ông đề nghị cất cho bà cái chùa nhỏ, trong một cảnh vườn yên tĩnh: "Mùa đông cũng như mùa hè, lạnh ấm đều sẽ do ta lo liệu, một là để báo ân, hai là để chuộc lỗi... ”. Bà cố cầm giọt lệ: "Quan nhân có hậu tình, còn tôi chẳng gặp chồng, cái thân cô khổ cũng là do số mệnh vậy, đâu có dám trách ai... Nay tôi được biết tấm lòng tốt này cũng an ủi cảnh linh lạc vậy". Và bà đã từ chối. Và Lãn Ông làm thơ. Phải, bởi vì đâu có thứ thuốc nào sắc ba chén còn bảy phân mà chữa được cái bệnh của ông bây giờ! Ông viết: “Tôi lấy làm thương tình, mới giải lòng trong một bài thơ như sau:

Vô tâm sự xuất ngộ nhân đa,
Kim nhật tương khan khổ tự ta.
Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ,
Song mâu xuân tận kiến hình hoa.
Thử sinh nguyện tác can huynh muội,
Tái thế ứng đồ tốn thất gia.
Ngã bất phụ nhân nhân phụ ngã,
Túng thiên như thứ nại chi hà?"

Mà Ngô Tất Tố đã chuyển dịch:

Vô tâm nên nỗi luỵ người ta
Trông mặt nhau đây luống xót xa
Gượng cười khôn giấu đôi hàng lệ
Tóc bạc che mờ nữa mặt hoa
Kiếp này hãy kết làm huynh muội
Kiếp khác xin hoàn nghĩa thất gia
Ai nỡ phụ ai, ai nỡ phụ
Dỡ dang, dang dỡ biết ru mà?

Cảm động vì bài thơ "giải lòng" đó mà đã tha thứ cho ông. Ông viết: "Từ đó thời thường qua lại hỏi thăm nhau”.

Chuyện thời kết thúc ra sao?
Tuổi hạc ngày càng cao, bà chỉ xin ông mua gỗ ở Nghệ An đóng cho bà một cổ quan tài. Vâng, phải đúng gỗ ở Nghệ An bà mới chịu, vì đây là vùng Hương Sơn quê mẹ Lãn Ông (Lãn Ông quê gốc Hải Dương, nhưng sống và thành danh ở Hương Sơn). Có lẽ bà nghĩ lúc sống đã không được nên duyên vợ chồng thì lúc chết ít ra cũng được âu yếm nằm trong một cổ quan tài do ông đóng cho bà từ thứ gỗ của quê hương ông.

Đó, chuyện tình của Lãn Ông, "Ông Làm Biếng" làng Hải Thượng, một chuyện tình thuỷ chung, nhân hậu của một thầy thuốc, ông Tổ của ngành Y, làm ta thấy càng gần gũi với ông hơn, càng quý trọng ông hơn.

 ❧ ❀ ❧ 

------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chú thích:
Hải Thượng Lãn Ông. Thượng Kinh Ký Sự
NXB Văn học, 1993. Bản dịch của Ứng Nhạc Vũ Văn Đình

Nguồn: VietFun